Năng lượng: Giá dầu Brent qua quý giảm mạnh nhất trong năm 2019
Phiên giao dịch cuối tháng, giá dầu giảm khi giới đầu tư bớt lo ngại về khả năng thiếu hụt nguồn cung cũng như căng thẳng ở Trung Đông.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 1,13 USD, hay 1,8%, xuống 60,78 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,84 USD, hay 3,3%, xuống 54,07 USD/thùng.
Như vậy, trong tháng 9/2019, giá dầu Brent tăng 0,6%, trong khi dầu WTI giảm 1,9%. Vụ tấn công vào các cơ sở lọc dầu của Saudi Arabia ngày 14/9/2019 khiến sản lượng của nước này giảm 50%, đẩy giá dầu ngay phiên sau đó tăng gần 20%.
Tính chung trong quý 3/2019, dầu Brent giảm 8,7%, mức giảm theo quý lớn nhất kể từ quý IV/2018 - khi giá giảm đến 35%; dầu WTI giảm 7,5% trong cùng quý do nhu cầu tăng yếu trước những lo ngại rằng cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kìm hãm đà tăng trưởng toàn cầu.
Kết quả một cuộc khảo sát của hãng tin Reuters cho thấy dầu có thể vẫn vững giá trong năm nay, trước các cú “sốc” về nguồn cung như vụ tấn công ở Saudi Arabia và nhu cầu ảm đạm. Giới phân tích dự đoán giá dầu Brent và dầu WTI trung bình sẽ ở các mức lần lượt là 65,19 USD/thùng và 57,96 USD/thùng trong năm 2019.
Mỏ dầu Saudi Aramco tuần trước đã nhanh chóng khôi phục công suất đầy đủ bằng mức trước khi bị tấn công. Công suất sản xuất dầu của Aramco đã được khôi phục lên 11,3 triệu thùng/ngày sau khi cuộc tấn công gây giảm 5,7 triệu thùng/ngày, theo Reuters. Các quan chức Saudi cho biết Aramco sẽ đạt công suất 12 triệu thùng/ngày vào tháng 11.
Sản lượng dầu của OPEC đã giảm xuống mức thấp nhất 8 năm vào tháng 9 còn 29,8 triệu thùng/ngày, giảm 750.000 thùng/ngày so với tháng 8.
Tình hình Trung Đông bớt căng thẳng sau khi Saudi Arabia và Mỹ đổ lỗi các cuộc tấn công vào Iran, giảm bớt áp lực tăng giá.
Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, cảnh báo về sự bất ổn trên thị trường quốc tế sau khi có tin chính quyền của Tổng thống Donald Trump đang xem xét loại bỏ các công ty Trung Quốc khỏi các sàn giao dịch chứng khoán Mỹ.
Các nhà phân tích dự báo dầu thô Brent sẽ đạt trung bình 65,19 USD/thùng và WTI đạt 57,96 USD trong năm 2019.
Kim loại quý: Giá vàng giảm quý đầu tiên trong 5 quý
Phiên cuối cùng của tháng 9/2019, giá vàng giảm do USD mạnh lên. Vàng giao ngay giảm 1,7% xuống 1.471,09 USD/ounce, đầu phiên có lúc giá giảm khoảng 2% xuống mức thấp nhất kể từ 6/8 là 1.463,99 USD. Vàng giao sau giảm 2,2% xuống 1.472,90 USD.
Tính chung trong quý 3/2019, giá vàng đã giảm quý đầu tiên trong vòng 5 quý. Tuy nhiên, so với đầu năm 2019 thì giá hiện cao hơn 4%.
Giới đầu tư đang theo dõi chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Hồi tháng Chín, ngân hàng này đã cắt giảm lãi suất lần thứ hai trong năm nay.
Về những kim loại quý khác, cũng trong phiên cuối tháng, giá bạch kim giảm 5,6% xuống 878,86 USD, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 28/8 là 870,5 USD vào đầu phiên; giá bạc giảm 2,9% xuống 17,04 USD, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất hơn 1 tháng là 16,89 USD. Tuy nhiên, cả hai kim loại đều tăng trong quý 3/2019, với mức tăng lần lượt khoảng 5,4% và 11,4%. Giá bạch kim trong phiên cuối tháng giảm 0,6% xuống còn 1.670,45 USD/ounce vào lúc đống cửa, sau khi chạm mức cao kỷ lục 1.700,71 USD/ounce vào đầu phiên, tính chung cả tháng 9/2019 tăng khoảng 9% do nguồn cung tiếp tục thiếu hụt.

Kim loại công nghiệp: Giá quặng sắt tăng trong tháng 9, đồng giảm trong quý 3/2019

Giá đồng giảm do lo ngại nhu cầu yếu gây ra bởi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kéo dài. Tuy nhiên các số liệu về hoạt động công nghiệp tại Trung Quốc đã hỗ trợ giá. Trên sàn giao dịch kim loại London, giá đồng giảm 0,7% còn 5.725 USD/tấn. Giá đã giảm hơn 4% trong quý 3. Trong khi đó, giá kẽm kỳ hạn 3 tháng đã tăng 3,1% đạt mức 2.376 USD/tấn và tăng hơn 7% trong tháng 9, mức tăng hàng tháng đầu tiên kể từ tháng 3. Giá chì chốt phiên tăng 3,2% lên 2.135 USD sau khi chạm mức cao nhất 7 tháng vào đầu phiên là 2.151,50 USD/ tấn do lo ngại thiếu cung trong những tháng tiêu thụ cao điểm mùa đông.
Chỉ số quản lý mua hàng chính thức của Trung Quốc (PMI) đã được cải thiện đôi chút trong tháng này, tăng từ 49,5 trong tháng 8 lên 49,8 trong tháng 9, nhưng vẫn ở dưới mốc 50 điểm.
Giá sắt thép tăng sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc tuyên bố mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế đang giảm tốc, song mức tăng bị hạn chế trước kỳ nghỉ lễ dài ngày.
Tại Thượng Hải, giá thép cây tăng trở lại sau 3 phiên giảm liên tiếp, tăng 1,1% lên 3.470 CNY (486,83 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 0,4% lên 3.463 CNY/tấn; thép không gỉ tăng 0,2% lên 15.700 CNY/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng phiên thứ 3 liên tiếp, thêm 2,5% lên 655,5 CNY/tấn; tính chung cả tháng 9/2019 tăng gần 10% sau khi giảm 23,3% trong tháng 8/2019. Giá quặng sắt trên sàn Singapore tăng 3% lên 88,55 USD/tấn. Chính phủ Australia dự báo giá quặng sắt trung bình trong năm 2019 sẽ đạt 80 USD/tấn FOB, do nguồn cung gián đoạn và nhu cầu từ Trung Quốc tăng và sẽ đạt 57 USD/tấn vào năm 2021.
Nông sản: Giá cao su giảm
Phiên cuối cùng của tháng 9/2019, giá cà phê Arabica giao tháng 12 tăng 0,3 cent, tương đương 0,2%, đạt mức 1,0115 USD/lb. Cà phê Robusta giao tháng 11 giảm 1 USD, tương đương 0,08%, xuống mức 1.320 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm ước giảm 12% so với năm ngoái xuống còn 1,27 triệu tấn.
Giá đường thô tại Chicago tăng cao trước khi hết hạn hợp đồng kỳ hạn tháng 10. Chốt phiên, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,03 cent, tương đương 0,2%, đạt 12,65 cent/lb sau khi có lúc đạt đỉnh 12,85 US cent, cao nhất kể từ ngày 13/8; giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 2,90 USD, tương đương 0,8%, đạt 344,30 USD/tấn, sau khi có lúc đạt đỉnh 345,80 USD, mức cao nhất kể từ tháng 3.
Giá đậu tương tăng vọt lên mức cao nhất 8 tuần do Trung Quốc quyết định mua thêm 600.000 tấn đậu tương Mỹ trong bối cảnh USDA thông báo các số liệu về nguồn cung đậu tương thấp hơn so với dự báo của các thương nhân
Chốt phiên giao dịch, đậu tương kỳ hạn tăng 2,4% đạt 9.06 USD/bushel tại Chicago. Trong khi đó, giá ngô cũng tăng 4,2% lên 3,88 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm gần 1% xuống mức thấp nhất gần 8 tuần theo xu hướng giá đậu tương. Dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Bursa (Malaysia) phiên này giảm 0,9% xuống 2.129 ringgit (508,72 USD)/tấn, sau khi giảm 3,4% trong tuần trước đó.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm do lo ngại nguồn cung dư thừa. Cao su kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1 JPY xuống 160,5 JPY(1,49 USD)/kg. Tính cả tháng 9, giá giảm 1,8%; cao su TSR 20 giao tháng 3/2020 ổn định ở mức 148,9 JPY/kg.
Tại Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 15 CNY còn 11.470 CNY(1.607 USD)/tấn; cao su TSR20 giảm 50 CNY còn 9.745 CNY/tấn. Giá cao su Singapore giao tháng 10/2019 đạt 129,5 Uscent/kg, tăng 2,5%.
Thị trường tài chính Trung Quốc sẽ đóng cửa nghỉ lễ quốc khánh từ ngày 1 đến 7/10/2019 và sẽ mở cửa trở lại vào ngày 8/10/2019.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 28/8

Giá 30/9

30/9 so  với 27/9

30/9 so với 27/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,91

54,07

-1,84

-3,3%

Dầu Brent

USD/thùng

61,91

60,78

-1,13

-1,83%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.580,00

36.940,00

-570,00

-1,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,40

2,33

0,00

-0,21%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

165,14

160,49

-4,65

-2,82%

Dầu đốt

US cent/gallon

194,16

190,56

-3,60

-1,85%

Dầu khí

USD/tấn

602,25

587,00

-3,25

-0,55%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.090,00

54.270,00

-880,00

-1,60%

Vàng New York

USD/ounce

1.506,40

1.476,70

+3,80

+0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.189,00

5.101,00

-59,00

-1,14%

Bạc New York

USD/ounce

17,65

17,05

+0,05

+0,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,60

59,30

-1,10

-1,82%

Bạch kim

USD/ounce

931,03

884,35

+1,28

+0,14%

Palađi

USD/ounce

1.684,40

1.684,25

+8,44

+0,50%

Đồng New York

US cent/lb

259,75

256,55

-1,30

-0,50%

Đồng LME

USD/tấn

5.767,00

5.725,00

-42,00

-0,73%

Nhôm LME

USD/tấn

1.735,00

1.721,50

-13,50

-0,78%

Kẽm LME

USD/tấn

2.303,50

2.378,00

+74,50

+3,23%

Thiếc LME

USD/tấn

16.130,00

15.925,00

-205,00

-1,27%

Ngô

US cent/bushel

371,50

387,25

-0,75

-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

487,25

497,00

+1,25

+0,25%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,00

277,75

+2,00

+0,73%

Gạo thô

USD/cwt

12,16

12,00

-0,01

-0,12%

Đậu tương

US cent/bushel

883,00

905,75

-0,25

-0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

295,10

302,10

+1,10

+0,37%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,84

29,13

+0,05

+0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

445,80

451,20

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.490,00

2.442,00

-48,00

-1,93%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,90

101,15

+0,25

+0,25%

Đường thô

US cent/lb

12,62

12,65

+0,03

+0,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,85

99,75

-0,10

-0,10%

Bông

US cent/lb

60,90

60,77

-0,06

-0,10%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

371,60

367,10

-4,50

-1,21%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,00

159,70

-0,80

-0,50%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

1,48

+0,08

+5,32%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg