Ngày càng nhiều quốc gia nới lỏng chính sách phong tỏa hoặc giãn cách xã hội, các doanh nghiệp từ Paris tới Thượng Hải đang hoạt động trở lại.
Australia, Pháp và Tây Ban Nha bắt đầu nới lỏng những chính sách giãn cách xã hội, trong khi Anh – nước có số ca tử vong vì Covid-19 cao thứ 2 thế giới – cũng đã đưa ra một số chính sách nới lỏng các hạn chế.
Tuy nhiên, điều đó cũng dẫn tới nguy cơ dịch bệnh sẽ lại gia tăng. Vũ Hán – tâm dịch của Trung Quốc và cũng là nơi virus corona bùng phát lần này, đã phát hiện những ca nhiễm đầu tiên kể từ khi chính sách phong tỏa ở đây được dỡ bỏ hồi tháng trước. Trong khi đó, Đức ngày 11/4 thông báo số ca nhiễm mới gia tăng theo cấp số nhân sau khi đã giảm trong thời gian phong tỏa trước đó; Hàn Quốc hôm 10/5 cảnh báo về đợt bùng phát virus mới.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm vì giới đầu tư lo ngại nếu xảy ra một đợt bùng phát dịch bệnh mới thì nhu cầu xăng dầu sẽ lại quay đầu giảm. Tuy nhiên, đà giảm được hạn chế bởi Saudi Arabia có kế hoạch cắt giảm thêm sản lượng dầu thô.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,34 USD, hay 4,3%, xuống 29,63 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 60 US cent, hay 2,4%, xuống 24,14 USD/thùng.
Giá dầu đã mất trên 55% trong năm nay do tác động của dịch COVID-19, và mới có dấu hiệu hồi phục từ 2 tuần nay do nhu cầu hồi phục và các nước sản xuất chủ chốt cắt giảm sản lượng.
Về nguồn cung, Bộ Năng lượng Saudi Arabia đã chỉ đạo công ty dầu khí quốc gia Saudi Aramco cắt giảm sản lượng thêm 1 triệu thùng dầu thô/ngày kể từ tháng 6/2020, dự báo sẽ làm tăng hiệu quả của chính sách kiềm chế sản xuất, sau khi Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nước đồng minh (OPEC+) thực thi cắt giảm khoảng 10 triệu thùng/ngày kể từ 1/5/2020. Chính phủ Kazakhstan cũng đã quyết định sẽ cắt giảm sản lượng dầu từ tháng 5 trở đi theo thỏa thuận OPEC+ đạt được hồi tháng trước.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do đồng USD mạnh lên khi các nhà đầu tư bảo toàn tài sản do lo ngại đợt lây nhiễm thứ hai dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19. 
Giá vàng giao ngay tại London giảm 0,3% xuống 1.695 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 6/2020 tại Mỹ giảm 0,9% xuống 1.698 USD/ounce.
Đồng USD tăng do cảnh báo đợt lây nhiễm COVID-19 lần thứ hai sau khi các chính phủ nới lỏng giãn cách xã hội. Đồng tiền này được coi là một tài sản an toàn có giá trị cạnh tranh với vàng trong thời kỳ bất ổn kinh tế và chính trị.
Daniel Ghali, chiến lược gia về hàng hóa thuộc trung tâm TD Securities, cho rằng nhu cầu ngắn hạn đối với đồng USD rất mạnh. Vàng đang chịu tác động từ các yếu tố trái chiều: triển vọng lạm phát cao và áp lực giảm phát từ số liệu kinh tế yếu. Tuy nhiên, về lâu dài, triển vọng giá vàng vẫn tích cực bởi các chương trình kích thích kinh tế của các ngân hàng trung ương khắp thế giới sẽ dẫn tới việc đồng USD giảm giá, qua đó có lợi cho vàng.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản hầu hết tăng khi các hoạt động kinh tế ở Trung Quốc đang dần hồi phục sau thời gian phong tỏa kéo dài, đem lại hy vọng nhu cầu ở nước tiêu thụ kim loại số 1 thế giới này sẽ mạnh lên, giữa bối cảnh ngân hàng trung ương Trung Quốc ra tín hiệu sẽ tăng cường kích thích kinh tế hơn nữa.
Giám đốc điều hành Dan Smith của Commodity Market Analytics cho biết: "Các kim loại cơ bản đang phản ứn tích cực trước những dấu hiệu về việc hoạt động kinh tế của Trung Quốc đang hồi phục và dần trở lại bình thường".
Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc tăng nhẹ trong tháng 4 so với tháng 4, trong khi tiêu thụ ô tô tháng 4 tăng tháng đầu tiên trong vòng gần 2 năm.
Phiên giao dịch 11/5, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng có thời điểm lên tới 5.370 USD/tấn, cao nhất kể từ 16/3/2020, và đã tăng hơn 20% kể từ 19/3/2020 đến nay. Tuy nhiên, sau đó giá giảm trở lại, kết thúc phiên giảm 0,3% và chốt ở 5.258 USD/tấn.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 0,7% lên 1.495 USD/tấn, kẽm tăng 1,1% lên 2.026 USD/tấn, chì tăng 1,8% lên1.673 USD/tấn, nickel tăng 0,2% lên 12.345 USD/tấn và thiếc tăng 0,2% lên 15.255 USD/tấn.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên, kỳ hạn giao tháng 9/2020, giảm 0,3% xuống 630 CNY/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép không gỉ phiên vừa qua đạt mức cao nhất trong vòng 9 tháng do nhu cầu trong nước tiếp tục hồi phục sau khi thị trường mở cửa trở lại và lo ngại về tình trạng nguồn cung một số nguyên liệu như nickel và chrome.
Thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2020 phiên vừa qua có lúc tăng 4,4%, trước khi kết thúc phiên ở mức tăng 4% lên 13.675 CNY (1.931,55 USD)/tấn, cao nhất kể từ 1/8/2019; thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 0,1% xuống 3.452 CNY/tấn, trong khi thép cuộn cán nóng tăng phiên thứ 6 liên tiếp, thêm 0,03% lên 3.329 CNY/tấn.
Hai hãng khai thác mỏ nickel hàng đầu ở Philippines đã khôi phục dần hoạt động khai mỏ và xuất khẩu kể từ tháng 5/2020 sau thời gian gián đoạn trước đó vì lệnh phong tỏa do Covid-19. Tuy nhiên, các thương gia cho biết sản lượng vẫn thấp hơn so với năm ngoái.
Hãng sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc – Baoshan Iron & Steel Co Ltd – thông báo sẽ nâng giá thép cuộn cán nóng thêm 50 CNY (7,06 USD)/tấn kể từ tháng 6 tới.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương trên sàn Chicago tăng lên mức cao nhất 3,5 tuần do dự báo Mỹ sẽ tăng thêm xuất khẩu đậu tương sang Trung Quốc. Đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 4-1/2 US cent lên 8,55 USD/bushel vào cuối phiên, sau khi có thời điểm đạt 8,61-1/4 USD/bushel, mức cao nhất kể từ 15/4/2020.
Các doanh nghiệp Mỹ lạc quan về triển vọng xuất khẩu sau khi các nhà nhập khẩu Trung Quốc đã mua ít nhất 4 chuyến đậu tương Mỹ, tương đương khoảng 240.000 tấn. Khả năng Trung Quốc sẽ còn mua thêm nữa. Một doanh nghiệp quốc doanh của Trung Quốc đã chào mua tới 20 chuyến đậu tương, kỳ hạn giao từ tháng 7 đến tháng 11/2020.
Giá ngô và lúa mì giảm trong phiên vừa qua do các thương gia điều chỉnh hoạt động giao dịch trước khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố báo cáo hàng tháng về cung – cầu nông 1sản. Kết thúc phiên vừa qua, ngô kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 3/4 US cent xuống 3,18-1/2 USD/bushel, trong khi lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 4-3/4 US cent xuống 5,17-1/4 USD/bushel.
Giá đường giảm trong phiên vừa qua do đồng real Brazil tiếp tục yếu đi. Đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn New York giảm 0,17 US cent (1,7%) xuống 10,12 US cent/lb. Đường trắng giao tháng 8/2020 trên sàn London giảm 7,1 USD (2%) xuống 340,90 USD/tấn.
Đồng real Brazil giảm giá so với USD khiến giá đường xuất khẩu của nước này trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Trong khi đó, khu vực Trung Nam Brazil (nơi sản xuất đường chính của nước này) đang sản xuất đường với công suất tối đa vì nhu cầu ethanol thấp.
Giá cà phê biến động trái chiều giữa 2 thị trường. Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn New York giảm 0,9 US cent (0,8%) trong phiên vừa qua, xuống 1,1075 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 12 USD (1%) lên 1.198 USD/tấn.
Thu hoạch cà phê ở Nam Mỹ vụ này có thể bị trì hoãn vì thiếu nhân lực do chính sách giãn cách xã hội để ngăn chặn Covid-19, đe dọa giảm lượng xuất khẩu cà phê chất lượng cao từ khu vực này trong năm nay. Yếu tố này có lợi cho giá arabica. Tuy nhiên, đồng real yếu đi tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu cà phê Brazil hạ giá bán khi quy ra USD.
Giá cao su trên sàn Tokyo phiên vừa qua ổn định giữa bối cảnh nhà đầu tư do lo ngại nhu cầu lốp xe giảm sút, mặc dù các nhà đầu tư bắt đầu hy vọng về việc nhiều quốc gia đang mở cửa trở lai nền kinh tế của mình sau giai đoạn phong tỏa chống Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn TOCOM nhích nhẹ 0,1 JPY lên 152,8 JPY (1,43 USD)/kg. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 25 CNY xuống 10.335 CNY (1.459 USD)/tấn.
Doanh số bán ô tô của Trung Quốc tháng 4/2020 tăng lần đầu tiên trong vòng 2 năm, nhưng doanh số bán trong cả năm 2020 chắc chắn sẽ giảm khoảng 25% nếu dịch bệnh còn tiếp diễn. Sản lượng ô tô ở Mexico và Brazil – hai nước sản xuất hàng đầu khu vực Mỹ Latinh, đã giảm 99% trong tháng 4/2020 do khủng hoảng Covid-19, với tổng số xe sản xuất chỉ đạt 5.569 chiếc.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/5/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

24,74

+0,60

+2,49%

Dầu Brent

USD/thùng

29,63

-1,34

-4,33%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

23.180,00

-220,00

-0,94%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,83

+0,01

+0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

94,11

+1,69

+1,83%

Dầu đốt

US cent/gallon

88,14

+1,27

+1,46%

Dầu khí

USD/tấn

240,00

-2,25

-0,93%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

33.460,00

+710,00

+2,17%

Vàng New York

USD/ounce

1.698,70

+0,70

+0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.877,00

+20,00

+0,34%

Bạc New York

USD/ounce

15,69

+0,01

+0,06%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,60

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

767,54

-0,48

-0,06%

Palađi

USD/ounce

1.915,78

+16,03

+0,84%

Đồng New York

US cent/lb

238,00

0,00

0,00%

Đồng LME

USD/tấn

5.274,00

+76,00

+1,46%

Nhôm LME

USD/tấn

1.485,00

+5,50

+0,37%

Kẽm LME

USD/tấn

2.003,50

+28,50

+1,44%

Thiếc LME

USD/tấn

15.225,00

+25,00

+0,16%

Ngô

US cent/bushel

318,50

-0,75

-0,23%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

517,25

-4,75

-0,91%

Lúa mạch

US cent/bushel

302,25

+3,25

+1,09%

Gạo thô

USD/cwt

15,40

+0,07

+0,46%

Đậu tương

US cent/bushel

855,00

+4,50

+0,53%

Khô đậu tương

USD/tấn

290,30

-0,50

-0,17%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,49

-0,05

-0,19%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

471,30

+2,70

+0,58%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.463,00

+63,00

+2,63%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

110,75

-0,90

-0,81%

Đường thô

US cent/lb

10,12

-0,17

-1,65%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,55

-3,90

-3,27%

Bông

US cent/lb

56,63

+0,36

+0,64%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

353,80

-11,20

-3,07%

Cao su TOCOM

JPY/kg

153,10

+0,30

+0,20%

Ethanol CME

USD/gallon

1,11

+0,01

+0,73%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg