Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khoảng 1 USD sau những thông tin kinh tế lạc quan đến từ Châu Âu và Châu Á, mặc dù vẫn còn đó lo ngại về tình trạng gia tăng số ca nhiễm Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng tăng 1,21 USD (3,1%) lên 39,7 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc tăng 69 US cent (1,7%) lên 41,71 USD/thùng.
Giá dầu Brent đang hướng tới tháng tăng thứ ba liên tiếp khi kết thúc tháng Sáu, sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, còn gọi là OPEC +, đã gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng 9,7 triệu thùng mỗi ngày tới tháng 7/2020.
Sự cải thiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã giúp làm tăng niềm tin vào triển vọng kinh tế của khu vực này. Theo dữ liệu từ Ủy ban châu Âu (EC), chỉ số lòng tin đối với nền kinh tế khu vực này trong tháng Sáu đã tăng lên 75,7 điểm, so với mức tương ứng 67,5 điểm của tháng Năm, song vẫn thấp hơn dự báo.
Tại Trung Quốc, lợi nhuận của các công ty công nghiệp đã tăng lần đầu tiên sau sáu tháng trong tháng 5/2020, cho thấy sự phục hồi kinh tế của nước này đang vào guồng. Trong khi đó, các chỉ số chứng khoán Mỹ đều tăng mạnh trong phiên giao dịch đầu tuần này, cũng góp phần hỗ trợ cho giá dầu.
Tuy nhiên, lo ngại về một đợt bùng phát đại dịch lần hai đã hạn chế đà đi lên của giá “vàng đen”. Số ca tử vong vì Covid-19 trên toàn cầu tới ngày 28/6 đã vượt qua 500.000 người. Một số tiểu bang ở Mỹ đã tái áp đặt các hạn chế tiếp xúc sau khi chứng kiến số trường hợp nhiễm mới tăng mạnh. Bang California đã ra lệnh đóng cửa vào ngày 28/6, sau các động thái tương tự ở Texas và Florida. Tiểu bang Washington và thành phố San Francisco cũng đã tạm dừng kế hoạch mở cửa trở lại.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng gần như không thay đổi, duy trì quanh mức cao nhất 8 năm qua, giữa bối cảnh giới đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm nhẹ 0,1% xuống còn 1.769,52 USD/ounce và chỉ thấp hơn 9,54 USD so với mức cao nhất kể từ tháng 10/2012 ghi nhận được trong phiên 24/6; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 0,1% lên 1.781,20 USD/ounce. Giá vàng giao ngay thế giới đang hướng tới tháng tăng thứ ba liên tiếp và quý tăng mạnh nhất trong hơn 4 năm qua.
Theo nhà chiến lược thị trường cao cấp Bob Haberkorn của RJO Futures, số ca mắc Covid-19 gia tăng ở nhiều bang của Mỹ đang hỗ trợ cho giá vàng. Ngoài ra, giá vàng cũng chịu ảnh hưởng của đồng USD ổn định và thị trường chứng khoán Phố Wall (Mỹ) tăng điểm khi giới đầu tư hy vọng Mỹ sẽ triển khai thêm các gói hỗ trợ kinh tế giữa lúc số ca mắc Covid -19 trên toàn cầu tiếp tục tăng.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 2,5% lên 1.906,15 USD/ounce, giá bạch kim tăng 2,1% lên 807,39 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 0,1% lên 17,77 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất gần 5 tháng do nguồn cung tại nước sản xuất đồng hàng đầu – Chile – gián đoạn, nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – tăng và tồn trữ giảm.
Giá đồng trên sàn London kết thúc phiên vừa qua tăng 0,1% lên 5.963 USD/tấn đạt 6.006 USD/tấn. Tính đến nay, giá đồng tăng khoảng 35% kể từ mức thấp nhất trong tháng 3/2020.
Sản lượng đồng tại Chile có thể giảm 200.000 tấn tương đương 3,5% sản lượng đồng năm 2019, do virus corona tăng. Trong khi đó, lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc tăng lần đầu tiên trong 6 tháng trong tháng 5/2020. Hoạt động nhà máy của Trung Quốc tăng tháng thứ 4 liên tiếp trong tháng 6/2020, song tốc độ có thể giảm. Ngoài ra, tồn trữ đồng tại London giảm 2.450 tấn xuống 112.850 tấn, thấp nhất kể từ ngày 17/1/2020. Tồn trữ đồng tại Thượng Hải chạm 99.971 tấn, thấp nhất kể từ tháng 1/2019.
Giá sắt thép tại Trung Quốc giảm trong phiên vừa qua, khi thị trường mở cửa trở lại sau kỳ nghỉ lễ, trong bối cảnh triển vọng nhu cầu đối với nguyên liệu công nghiệp quan trọng suy giảm, do virus corona bùng phát và thời tiết khắc nghiệt. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm 4,2% xuống 733 CNY (103,58 USD)/tấn, đóng cửa phiên trước đó giảm 3,8% xuống 736 CNY/tấn. Giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 1,7% xuống 3.552 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 1,3% xuống 3.560 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 0,1% lên 13.160 CNY/tấn.
Nhu cầu sản phẩm thép giảm tuần thứ 3 liên tiếp trong tuần trước. Trong khi đó, triển vọng nhu cầu không chắc chắn khi Bắc Kinh đang nỗ lực ngăn chặn một làn sóng lây nhiễm mới.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tại Chicago tăng do hoạt động mua bù thiếu và Trung Quốc tăng cường mua ngô Mỹ sau khi giá chạm mức thấp nhất 7 tuần trong tuần trước đó.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 7 US cent lên 3,24 USD/bushel, giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 13 US cent lên 4,87 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 tăng 3-1/2 US cent lên 8,68-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE tăng 0,16 US cent lên 11,71 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 1 USD lên 352,2 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn ICE tăng 3,45 US cent tương đương gần 4% lên 100,1 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 103,15 US cent/lb, cao nhất 1 tháng; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 25 USD lên 1.178 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong nửa đầu năm 2020 dự kiến tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước đó.
Giá cao su tại Tokyo giảm phiên thứ 4 liên tiếp do đại dịch Covid-19 trở nên tồi tệ hơn, làm gia tăng mối lo ngại về các hạn chế kinh tế ảnh hưởng đến nhu cầu hàng hóa như cao su.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn TOCOM giảm 1,2 JPY tương đương 0,8% xuống 154 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải giảm gần 3% xuống 10.060 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 30/6/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

39,53

-0,17

-0,43%

Dầu Brent

USD/thùng

41,56

-0,15

-0,36%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.740,00

+1.260,00

+4,76%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,70

-0,01

-0,70%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

118,41

+3,08

+2,67%

Dầu đốt

US cent/gallon

116,88

+0,34

+0,29%

Dầu khí

USD/tấn

348,50

+0,50

+0,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

40.840,00

+1.100,00

+2,77%

Vàng New York

USD/ounce

1.782,60

+1,40

+0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.130,00

+18,00

+0,29%

Bạc New York

USD/ounce

18,06

-0,01

-0,05%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,70

+0,10

+0,16%

Bạch kim

USD/ounce

818,30

+3,25

+0,40%

Palađi

USD/ounce

1.906,04

+5,61

+0,30%

Đồng New York

US cent/lb

270,60

+1,35

+0,50%

Đồng LME

USD/tấn

5.961,50

+4,50

+0,08%

Nhôm LME

USD/tấn

1.609,00

+7,50

+0,47%

Kẽm LME

USD/tấn

2.061,50

+23,00

+1,13%

Thiếc LME

USD/tấn

16.775,00

-40,00

-0,24%

Ngô

US cent/bushel

327,00

-1,75

-0,53%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

484,75

-1,75

-0,36%

Lúa mạch

US cent/bushel

290,00

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,32

-0,02

-0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

862,75

+1,25

+0,15%

Khô đậu tương

USD/tấn

289,00

+0,40

+0,14%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,58

+0,12

+0,42%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

473,50

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.238,00

-39,00

-1,71%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,10

+3,45

+3,57%

Đường thô

US cent/lb

11,77

+0,15

+1,29%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

126,60

+0,30

+0,24%

Bông

US cent/lb

59,61

-0,02

-0,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

423,40

-0,70

-0,17%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154,50

+0,50

+0,32%

Ethanol CME

USD/gallon

1,16

+0,05

+4,05%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg