Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mặc dù các nước xuất khẩu dầu mỏ chủ chốt đề xuất cắt giảm sản lượng thêm nữa.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 4/2020 giảm 0,88 USD xuống 45,9 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 1,14 USD xuống 49,99 USD/thùng.
Trong cuộc họp ngày 5/3 tại thủ đô Vienna của Áo, Saudi Arabia đã đề nghị Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nước đối tác (OPEC+) gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng 1,7 triệu thùng/ngày hiện nay cho đến hết năm 2020, trong khi tiếp tục thỏa thuận cắt giảm 2,1 triệu thùng/ngày hiện nay, sẽ kết thúc trong tháng này, cho đến cuối năm nay.
Ngoài ra, OPEC đã đề xuất OPEC+ sẽ cắt giảm sản lượng thêm 1,5 triệu thùng/ngày trong quý II/2020 nhằm hỗ trợ giá dầu, trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đang lan rộng trên thế giới ảnh hướng xấu đến nhu cầu tiêu thụ năng lượng toàn cầu. Trong tổng khối lượng đó, đề xuất OPEC giảm 1 triệu thùng/ngày, còn Nga giảm 500.000 thùng/ngày.
Nếu OPEC+ quyết định cắt giảm thêm 1,5 triệu thùng dầu/ngày, điều này đồng nghĩa tổng sản lượng dầu cắt giảm của OPEC+ đạt 3,6 triệu thùng dầu/ngày, tương đương 3,6% nguồn cung toàn cầu.
Hồi đầu tháng Hai, OPEC đã đề xuất cắt giảm sản lượng 600.000 thùng/ngày do nhu cầu của Trung Quốc giảm sút vì dịch Covid-19.
Tuy nhiên, Saudi Arabia, nước sản xuất lớn nhất trong OPEC, và các nước khác vẫn chưa nhận được sự ủng hộ của Nga đối với một thỏa thuận như vậy. Cho tới nay, Nga vẫn muốn gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng hơn là cắt giảm mạnh hơn.
Triển vọng nhu cầu dầu mỏ đã bị ảnh hưởng lớn do các biện pháp kiểm soát sự lây lan của dịch COVID-19, khiến các nhà máy phải đóng cửa, người dân phải hạn chế đi lại cũng như làm chậm lại các hoạt động kinh doanh khác. Do đó, dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu thô năm 2020 đã được các tổ chức quốc tế đồng loạt điều chỉnh giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng thế giới tăng gần 2%, lên mức cao nhất trong hơn 1 tuần qua, do giới đầu tư tìm đến các tài sản an toàn bởi lo ngại về dịch Covid-19.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1,9% lên 1.666,16 USD/ounce; vàng kỳ hạn tăng 1,5% lên 1.668 USD/ounce.
David Meger, chuyên gia của công ty High Ridge Futures, cho biết do các thị trường chứng khoán đang chịu áp lực và có nhiều lo ngại về dịch Covid-19 nên tiền trên thị trường đang chảy từ các loại tài sản rủi ro sang các tài sản an toàn như vàng.
Bên cạnh đó, hỗ trợ đà tăng của giá vàng trong phiên này còn có chỉ số đồng USD, thước đo sức mạnh của “đồng bạc xanh” so với rổ các đồng tiền chủ chốt, đã giảm 0,5% xuống mức thấp nhất trong gần hai tháng, trong khi lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm xuống dưới mức 1%.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) mới đây cho biết sự lây lan của dịch bệnh trên toàn cầu đã khiến triển vọng tăng trưởng kinh tế trở nên bi quan hơn, trong khi một báo cáo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết có dấu hiệu cho thấy tình hình dịch bệnh đã bắt đầu tác động đến tâm lý kinh doanh ở Mỹ.
Fed và Ngân hàng Trung ương Canada đã phán ứng bằng cách hạ lãi suất 50 điểm cơ bản. Thị trường đang dự đoán 90% khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ cắt giảm lãi suất vào tuần tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1% lên 17,36 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,7% xuống còn 866,33 USD/ounce; giá palađi giảm 1,6% xuống 2.536,16 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá các kim loại cơ bản hầu hết đi lên do dự đoán các ngân hàng trung ương và chính phủ sẽ có thêm các biện pháp kích thích để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ nhu cầu để giảm thiểu tác động tiêu cực do sự lây lan của virus. Tuy nhiên, các thương nhân cho biết, thị trường kim loại công nghiệp vẫn ảm đạm do người tiêu dùng và sản xuất chờ đợi diễn biến trong những tuần và tháng tới. Bên cạnh đó, đồng USD yếu đi cũng góp phần hỗ trợ giá kim loại cơ bản tăng.
Giá kẽm trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa tăng 1,5% lên 2.011 USD/tấn; giá kim loại này được sử dụng rộng rãi trong mạ kẽm đã giảm gần 1/5 giá trị kể từ giữa tháng 1; giá chì tăng 0,9% lên 1.835 USD/tấn, thiếc tăng 0,6% lên 17.025 USD/tấn và nickel tăng 1,7% lên 12.890 USD/tấn.
Tuy nhiên, riêng giá đồng giảm do các thị trường chứng khoán Mỹ và Châu Âu quay lại xu hướng giảm bởi số ca nhiễm virus tăng vọt tại Mỹ. Giá đồng đóng cửa giảm 0,2% xuống 5.674 USD/tấn.
Trong nhóm sắt thép, giá thép Thượng Hải tăng bởi kỳ vọng Trung Quốc tung thêm kích thích nhằm hỗ trợ nền kinh tế bị tác động bởi sự bùng phát của virus corona, mặc dù đà tăng hạn chế khi tồn kho của quốc gia này cao kỷ lục.
Thép thanh dùng trong xây dựng trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tiếp tục tăng phiên thứ 4, đóng cửa tăng 0,6% lên 3.469 CNY (499,81 USD)/tấn. Trong phiên giá đã lên mức cao nhất kể từ ngày 24/2 tại 3.496 CNY. Thép cuộn cán nóng và thép không gỉ đều tăng 0,4%.
Hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xây dựng của Trung Quốc phục hồi sau khi bị trì trệ bởi dịch bệnh, nhưng nhu cầu thép vẫn chậm do dự trữ lớn của các sản phẩm thép.
Ngành thép của Trung Quốc đang đặt hy vọng vào việc có thêm nhiều chính sách kích thích, bao gồm cắt giảm lãi suất ngắn hạn để thúc đẩy sự phục hồi.
Bắc Kinh đã công bố các chính sách thuế và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhưng số liệu hoạt động sản xuất trong tháng 2 đã đặt ra vấn đề cấp bách của các biện pháp kích thích bổ sung. Sau khi Fed cắt giảm lãi suất khẩn cấp 50 điểm cơ bản trong tuần này, khả năng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tiếp tục giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp thông qua cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Sự lạc quan về chính sách kích thích bổ sung đã thúc đẩy giá quặng sắt tại sàn giao dịch Đại Liên tăng 2,2%. Giá quặng sắt Đại Liên cho đến nay tăng gần 15% kể từ khi xuống mức thấp nhất 3 tháng hôm 10/2 tại 580 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 7,3 US cent hay 6,2% xuống 1.1135 USD/lb, tiếp tục giảm từ mức cao nhất 7 tuần; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 giảm 33 USD hay 2,5% xuống 1.274 USD/tấn.
Taiị Châu Á, giá cà phê giảm nhẹ. Ở Tây Nguyên, người trồng cà phê chào giá cà phê nhân xô ở mức 31.500 đồng (1,38 USD)/kg, so với 32.000 đồng trong tuần trước. Cà phê robusta xuất khẩu loại 2 (5% hạt đen và vỡ) chào bán ở mức cộng 145 – 155 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5 tại London, tăng so với 130 USD trong tuần trước. Việt Nam đã thu hoạch 60 -70% cà phê vụ 2019 – 2020. Nhu cầu vẫn cao nhưng người trồng hạn chế bán do giá thấp. Tuy nhiên, cà phê sẽ sớm có thêm các nguồn cung mới từ Brazil và Indonesia bắt đầu đến từ tháng 4.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 2/2020 có thể tăng 31,1% so với tháng 2/2019 lên 150.000 tấn. Các lái thương dự báo xuất khẩu cà phê từ Việt Nam trong tháng 3/2020 sẽ phục hồi lên 160.000 – 170.000 tấn.
Trong khi đó tại Indonesia, một thương nhân ở tỉnh Lampung cho biết cà phê robusta Sumatran được chào ở mức cộng 250 – 270 USD so với hợp đồng tháng 7 và tháng 12/2020, không đổi so với một tuần trước. Indonesia đã xuất khẩu 12.149,9 tấn cà phê robusta từ tỉnh Lampung của Sumatra trong tháng 2/2020, tăng 51% so với cùng tháng một năm trước.
Giá đường cũng bị áp lực giảm từ đồng nội tệ của các nhà sản xuất hàng đầu Brazil và Ấn Độ suy yếu. Giá năng lượng giảm khiến các nhà máy đường tại Brazil sản xuất thêm đường so với ethanol sinh học. Mía là nguyên liệu sản xuất cả hai sản phẩm này.
Đường thô kỳ hạn tháng 5/2020 lúc đóng cửa giảm 0,4% xuống 13,42 US cent/lb, sau khi có lúc xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 1 tại 13,35 US cent; ffường trắng kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 1,2 USD hay 0,3% xuống 383,5 USD/tấn.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) phục hồi khi cổ phiếu Châu Á tăng làm dịu đi lo lắng của nhà đầu tư và khuyến khích việc săn giá hời, cho dù lo lắng kéo dài về sự sụt giảm kinh tế toàn cầu từ virus corona. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 3,5 JPY hay 2,1% lên 174 JPY (1,62 USD)/kg. Cao su kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 120 CNY lên 11.120 CNY (1.603 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 6/3 (giờ VN)

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,99

+0,09

+0,20%

Dầu Brent

USD/thùng

50,08

+0,09

+0,18%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

33.220,00

-1.380,00

-3,99%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,75

-0,02

-1,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

150,79

-1,39

-0,91%

Dầu đốt

US cent/gallon

148,96

+0,11

+0,07%

Dầu khí

USD/tấn

446,75

-9,25

-2,03%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.110,00

-1.550,00

-3,06%

Vàng New York

USD/ounce

1.671,50

+3,50

+0,21%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.685,00

+38,00

+0,67%

Bạc New York

USD/ounce

17,38

-0,02

-0,10%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,60

+0,10

+0,17%

Bạch kim

USD/ounce

867,46

-0,09

-0,01%

Palađi

USD/ounce

2.499,80

-45,51

-1,79%

Đồng New York

US cent/lb

257,10

-0,20

-0,08%

Đồng LME

USD/tấn

5.674,00

-10,00

-0,18%

Nhôm LME

USD/tấn

1.720,00

-6,00

-0,35%

Kẽm LME

USD/tấn

2.011,00

+29,00

+1,46%

Thiếc LME

USD/tấn

17.025,00

+100,00

+0,59%

Ngô

US cent/bushel

381,75

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

517,00

-1,75

-0,34%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

13,02

-0,09

-0,69%

Đậu tương

US cent/bushel

899,00

+2,00

+0,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,80

+0,90

+0,30%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,39

0,00

0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

463,10

-0,40

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.597,00

-29,00

-1,10%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,35

-7,05

-5,95%

Đường thô

US cent/lb

13,42

-0,05

-0,37%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,25

-1,15

-1,17%

Bông

US cent/lb

63,35

+0,37

+0,59%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

401,70

-9,10

-2,22%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,20

-3,80

-2,18%

Ethanol CME

USD/gallon

1,26

-0,03

-2,10%

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg