Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi Mỹ công bố báo cáo cho thấy lượng dự trữ dầu tại một trung tâm dự trữ chủ chốt ở đất nước này sụt giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 3/2018 trên sàn New York tăng 0,22 USD lên 61,90 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 4/2018 trên sàn London sụt giảm 0,57 USD xuống khép phiên ở mức 65,25 USD/thùng.
Dữ liệu mới nhất từ công ty nghiên cứu thị trường Genscape cho thấy lượng dầu dự trữ tại Cushing, Oklahoma - điểm giao hàng cho dầu thô kỳ hạn của Mỹ - đã giảm 2,1 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 16/2.
Tuy nhiên, việc đồng USD mạnh lên gây áp lực lên thị trường. Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt, đã tăng 0,58% lên 89,717 (điểm) vào cuối phiên giao dịch. Đồng bạc xanh mạnh làm cho giá dầu (thường được định giá bằng đồng USD) kém hấp dẫn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Từ lâu sản lượng dầu Mỹ luôn là nỗi ám ảnh của các nhà sản xuất dầu mỏ lớn khác, vì nước này tăng mạnh sản lượng dầu đá phiến gây giảm giá kéo dài suốt thời gian qua.
Tuy nhiên, sự bùng nổ sản lượng dầu đá phiến của Mỹ có thể bị chững lại do giá cát tăng. Trong năm 2018, nhu cầu cát được dự báo sẽ đạt ngưỡng kỷ lục 100 triệu tấn, theo công ty Rystad Energy.
Cát là một phần không thể tách rời trong việc khai thác dầu đá phiến bởi nguyên liệu này có tác dụng ngăn các lớp đất dính vào nhau trong quá trình bơm hợp chất fracking xuống lòng đất.
Chi phí khoan giếng dầu tăng có thể đe dọa đà tăng sản lượng dầu đá phiến của Mỹ. Halliburton- công ty dịch vụ mỏ dầu lớn thứ 2 thế giới, tuần trước cho biết doanh thu của công ty có thể chịu ảnh hưởng tiêu cực từ nguồn cung cát được sử dụng trong công nghệ khai thác dầu đá phiến.
Nhu cầu cát tăng từ 34 triệu trong năm 2012 lên 61,5 triệu tấn năm 2014. Tiêu thụ cát giảm dần trong những năm sau đó do giá dầu giảm nhưng phục hồi mạnh trở lại vào năm 2017 do giá dầu tăng.
Theo Financial Times, giá cát dùng để khai thác dầu đá phiến trong năm nay có thể lên tới 120 USD/tấn tại bang Texas, cao hơn nhiều so với năm 2017 và đắt gấp 3 lần so với giá cát ở khu vực khai thác phía bắc Mỹ.
Bên cạnh đó, hoạt động khai thác có thể đối mặt với một số trở ngại, đặc biệt là thời tiết lạnh ở bang Texas. Công ty đường sắt quốc gia Canada cho biết họ đã tạm hoãn việc vận chuyển cát khoảng 1 tuần tại Minnesota và Wisconsin do thời tiết quá lạnh.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm phiên thứ ba liên tiếp do đồng USD mạnh lên.
Giá vàng giao ngay giảm 1,3% xuống 1.328,71 USD/ounce, sau khi có lúc rơi xuống 1.328,26 USD/ounce – mức thấp nhất kể từ ngày 14/2; vàng giao tháng 4/2018 cũng giảm 1,8% (25 USD) xuống khép phiên ở mức 1.331,2 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD – thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này tăng 0,6% lên 89,724 (điểm). Đồng USD đang tiếp tục đà phục hồi từ mức thấp nhất trong vòng ba năm, giữa bối cảnh giới đầu tư đã bớt lo ngại về tình hình thâm hụt ngân sách của Mỹ và hướng đến những phiên đấu giá trái phiếu chính phủ dự kiến diễn ra trong tuần này.
Tuy nhiên, giá vàng vẫn được hỗ trợ phần nào bởi sự biến động chính trị và những diễn biến liên quan đến hoạt động đấu giá bán trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính Mỹ thực hiện trong tuần này. Người đứng đầu mảng chiến lược hàng hóa tại ngân hàng Saxo Bank ở Copenhagen, ông Ole Hansen nhận định rằng những bất ổn địa chính trị đang diễn ra sẽ có thể làm gia tăng nhu cầu tìm kênh “trú ẩn” an toàn và hỗ trợ giá vàng. Ngoài ra, giới đầu tư cũng đang chờ đợi biên bản họp tháng 1/2018 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ được công bố vào ngày 21/2, cũng như biên bản họp mới nhất của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vào ngày 22/2.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,2% xuống 16,46 USD/ounce; giá bạch kim cũng mất 0,2% xuống 1.000,2 USD/ounce sau khi đã chạm mức cao nhất trong vòng ba tuần là 1.013,6 USD/ounce vào phiên ngày 19/2 vừa qua.
Trên thị trường nông sản, đường trắng giao tháng 5 giá giảm 3,6 USD tương đương 1% xuống 357,90 USD/tấn, trong khi đường thô giao cùng kỳ hạn tăng 0,01 US cent tương đương 0,1% lên 13,29 US cent/lb.
Đồng USD mạnh lên gây áp lực lên giá đường. Bên cạnh đó, nguồn cung cao do sản lượng tăng ở Ấn Độ, Thái Lan và Liên minh châu Âu cũng gây áp lực giảm giá.
Đối với cà phê, arabica giao tháng 5 giá giảm 0,75 US cent tương đương 0,6% xuống 1,197 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn tăng 29 USD tương đương 1,7% lên 1.770 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

61,90

+0,22

+0,32%

Dầu Brent

USD/thùng

65,25

-0,57

-0,93%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.840,00

+80,00

+0,20%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,64

+0,03

+1,03%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

174,34

-0,69

-0,39%

Dầu đốt

US cent/gallon

192,90

+0,13

+0,07%

Dầu khí

USD/tấn

577,00

+2,75

+0,48%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.480,00

-80,00

-0,14%

Vàng New York

USD/ounce

1.330,70

-0,50

-0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.586,00

-4,00

-0,09%

Bạc New York

USD/ounce

16,51

-0,01

-0,05%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,20

+0,30

+0,53%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

998,85

-1,29

-0,13%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.024,36

-12,82

-1,24%

Đồng New York

US cent/lb

320,30

-1,05

-0,33%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.090,00

-28,00

-0,39%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.185,00

-29,00

-1,31%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.550,00

-5,00

-0,14%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

21.375,00

-175,00

-0,81%

Ngô

US cent/bushel

375,50

+1,75

+0,47%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

462,50

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

266,50

-2,00

-0,74%

Gạo thô

USD/cwt

11,86

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

1.037,75

+0,25

+0,02%

Khô đậu tương

USD/tấn

377,60

-1,70

-0,45%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,06

+0,02

+0,06%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

511,20

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.138,00

-10,00

-0,47%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,80

+0,10

+0,08%

Đường thô

US cent/lb

13,24

-0,05

-0,38%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

141,80

-4,45

-3,04%

Bông

US cent/lb

79,76

+0,80

+1,01%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

516,80

+9,00

+1,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

185,20

-0,80

-0,43%

Ethanol CME

USD/gallon

1,49

+0,01

+0,34%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg