Trên thị trường năng lượng, giá dầu mỏ diễn biến thất thường giữa bối cảnh số liệu chính thức cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ giảm đáng kể trong tuần trước và giới đầu tư theo dõi sát sao những diễn biến liên quan căng thẳng địa chính trị giữa Iran và phương Tây.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10/2019 giảm 0,45 USD xuống 55,68 USD/thùng, trong khi dầu Brent tăng 0,27 USD, lên 60,3 USD/thùng tại Sàn London ICE.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ngày 21/8 công bố số liệu cho thấy lượng dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 16/8 giảm 2,7 triệu thùng. Với mức 437,8 triệu thùng, lượng dự trữ dầu thô của Mỹ vượt khoảng 2% so với mức trung bình 5 năm trong cùng thời điểm của năm.
Trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 20/8, bà Maria Luiza Viotti, Chánh Văn phòng Tổng Thư ký Liên hợp quốc, đã kêu gọi các bên tại Trung Đông kiềm chế và đối thoại thẳng thắn nhằm tránh đối đầu nguy hiểm.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Iran Mohammad Javad Zarif ngày 19/8 đã cảnh báo bất kỳ nỗ lực nào của Mỹ nhằm bắt giữ tàu chở dầu được thả ngày 15/8 của Tehran.
Giá khí tự nhiên của Mỹ có ngày giảm mạnh nhất trong hơn 2 tuần do dự báo thời tiết ôn hòa hơn và do các thị trường đợi báo cáo dự trữ hàng tuần, dự kiến cho thấy tồn kho lớn hơn bình thường.
Khí tự nhiên kỳ hạn tháng 9 giảm 4,8 US cent hay 2,2% đóng cửa tại 2,17 USD/mmBtu, đánh dấu ngày giảm theo phần trăm lớn nhất kể từ 5/8.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giữa bối cảnh thị trường chờ đợi biên bản cuộc họp của Fed.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.504,00 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng giao dịch kỳ hạn của Mỹ đứng ở mức 1.515,70 USD/ounce.
Chiến lược gia cao cấp Phillip Streible tại RJO Futures nhận định các nhà giao dịch trên thị trường đang tỏ ra thận trọng trước khi biên bản cuộc họp của Fed được công bố. Theo chiến lược gia này, những tia hy vọng về thỏa thuận dàn xếp tranh chấp thương mại và triển vọng kinh tế đang hỗ trợ thị trường chứng khoán và thị trường đang “quay lưng” với tài sản an toàn để tìm đến những kênh đầu tư rủi ro như cổ phiếu.
Ngày 21/8, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết nước này đang có tiến triển tích cực trong đàm phán thương mại với Trung Quốc cũng như các thỏa thuận thương mại khác, đồng thời ông cũng gây sức ép để Fed tiếp tục hạ lãi suất. Theo ông Trump, chính sách của Fed đang cản trở đà tăng trưởng cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ.
Chiến lược gia Streible dự báo nếu biên bản cuộc họp cuối tháng Bảy của Fed không đưa ra bất kỳ dấu hiệu nào về việc cân nhắc giảm lãi suất hay thực hiện bất kỳ chương trình nới lỏng định lượng nào, giá vàng có thể sẽ tiếp tục giảm.
Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí nắm giữ vàng và “đè nặng” lên đồng USD, qua đó khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 17,14 USD/ounce, bạch kim tăng 0,8% lên 855 USD/ounce, trong khi palađi giảm 1,5% xuống 1.469,14 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do dự kiến biên bản cuộc họp của Fed sẽ làm sáng tỏ các biện pháp ngăn chặn đà tăng trưởng chậm lại ngay cả khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc tiếp tục gây ra mối lo về nhu cầu kim loại.
Đồng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa tăng 0,3% lên 5.730 USD/tấn.
Nhà phân tích thuộc ngân hàng Deutsche Bank cho biết tình trạng kinh tế vĩ mô là động lực chính cho biến động của các kim loại cơ bản.
Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump trả lời các phóng viên rằng ông phải đối đầu thương mại với Trung Quốc ngay cả khi điều đó gây tổn hại cho nền kinh tế Mỹ trong ngắn hạn, ông nói Bắc Kinh đã lừa dối Washington trong nhiều thập kỷ.
Xung đột thương mại ăn miếng trả miếng giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới đã làm giảm tăng trưởng kinh tế và gây nghi ngờ về nhu cầu đối với các kim loại cơ bản, trong đó Trung Quốc là nước tiêu thụ lớn nhất thế giới.
USD rời khỏi mức cao 2 tuần, cũng hỗ trợ một phần các hàng hóa định giá bằng USD, khiến chúng rẻ hơn cho người giữ các đồng tiền khác.
Theo Tổ chức Nghiên cứu Đồng Quốc tế, trong 5 tháng đầu năm nay thị trường đồng toàn cầu thiếu hụt 190.000 tấn so với mức thiếu hụt 131.000 tấn cùng kỳ năm trước.
Dự trữ đồng của kho LME đứng ở mức 298.900 tấn, gần cao nhất kể từ tháng 4/2019.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm xuống thấp nhất 10 tuần, tiếp tục giảm sau khi tập đoàn khai thác khổng lồ BHP đưa ra triển vọng bi quan về giá nguyên liệu thô sản xuất thép.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm phiên thứ 5 liên tiếp, đóng cửa giảm 4,3% xuống 589,5 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 10/6. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 tại sàn giao dịch Singapore giảm 5,8% xuống 81,42 USD/tấn vào cuối phiên giao dịch.
BHP, công ty khai mỏ lớn nhất thế giới, đã cảnh báo các yếu tố với kinh tế toàn cầu như cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc có thể gây thiệt hại cho các hàng hóa chủ chốt gồm quặng sắt.
BHP dự kiến giá trung bình cho các nguyên liệu thô sản xuất thép sẽ giảm trong năm tài chính 2020 so với năm 2019, mặc dù họ cho biết giá có thể vẫn trên chi phí biên trong dài hạn với bối cảnh gián đoạn nguồn cung.
Giá thép đã giảm trong những tuần gần đây do nhập khẩu của Trung Quốc phục hồi, trong khi nhu cầu thép yếu theo mùa và việc hạn chế sản xuất diễn ra tại một số trung tâm sản xuất thép.
Giá thép cây trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 1,1% xuống 3.686 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 0,2% xuống 3.720 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 1,4 US cent hay 1,5% lên 96,65 US cent/lb.
Đồng real của Brazil mạnh hơn đã hỗ trợ do không khuyến khích các nhà sản xuất bán các hàng hóa định giá bằng USD như cà phê và đường.
Giá cũng được củng cố bởi khả năng sản lượng giảm đi trong năm tới tại Brazil sau khi thời tiết bất lợi.
Ngân hàng Commerzbank cho biết thời tiết bất ổn và rất lạnh trong tháng 7 đã khiến nhiều cây trồng hư hại, mặc dù một số cây đã nở hoa sớm trong những tuần gần đây. Hoa có thể bị rụng với nhiệt độ cao dự báo trong tháng 9, điều này có thể làm giảm sản lượng.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 chốt phiên tăng 4 USD hay 0,3% lên 1.328 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,05 US cent hay 0,4% xuống 11,39 US cent/lb.
Các đại lý cho biết giá đang biến động trong biên độ hẹp do thị trường chờ đợi quyết định từ Chính phủ Ấn Độ về việc sẽ gia hạn hệ thống trợ cấp xuất khẩu tới tháng 9/2020.
Đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 1,2 USD hay 0,4% xuống 307,9 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) giảm theo xu hướng giá tại Thượng Hải do lo sợ dư cung của mặt hàng này sau khi các nhà sản xuất hàng đầu thế giới kết thúc việc hạn chế xuất khẩu.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 1/2020 đóng cửa giảm 2,7 JPY xuống 168,3 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 200 CNY (28,33 USD) xuống 11.390 CNY /tấn. 

 

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,68

-0,45

Dầu Brent

USD/thùng

60,03

+0,27

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.270,00

+200,00

+0,54%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,17

0,00

-0,09%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

170,00

+0,62

+0,37%

Dầu đốt

US cent/gallon

186,19

+0,46

+0,25%

Dầu khí

USD/tấn

571,75

-0,25

-0,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.840,00

+390,00

+0,70%

Vàng New York

USD/ounce

1.510,60

-5,10

-0,34%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.128,00

-7,00

-0,14%

Bạc New York

USD/ounce

17,08

-0,07

-0,41%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,50

+0,10

+0,17%

Bạch kim

USD/ounce

851,69

-1,11

-0,13%

Palađi

USD/ounce

1.471,60

-0,21

-0,01%

Đồng New York

US cent/lb

258,60

-0,60

-0,23%

Đồng LME

USD/tấn

5.732,00

+21,00

+0,37%

Nhôm LME

USD/tấn

1.779,00

-3,00

-0,17%

Kẽm LME

USD/tấn

2.289,00

+63,00

+2,83%

Thiếc LME

USD/tấn

16.200,00

-275,00

-1,67%

Ngô

US cent/bushel

371,75

+1,50

+0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

468,50

+0,50

+0,11%

Lúa mạch

US cent/bushel

269,50

-0,75

-0,28%

Gạo thô

USD/cwt

11,22

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

873,25

+0,25

+0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,70

+0,40

+0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,07

-0,05

-0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

452,70

-0,40

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.207,00

+33,00

+1,52%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

96,65

+1,40

+1,47%

Đường thô

US cent/lb

11,39

-0,05

-0,44%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,45

+2,55

+2,60%

Bông

US cent/lb

59,86

-0,08

-0,13%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

369,10

+2,90

+0,79%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,50

-0,80

-0,48%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

+0,05

+3,69%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters

 

 

Nguồn: Vinanet