Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm trong bối cảnh các nhà đầu tư đang chờ đợi Mỹ công bố thống kê về lượng dầu dự trữ của nước này.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 3/2018 giảm 1,06 USD xuống 64,50 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn cũng giảm 0,44 USD xuống 69,02 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cuối ngày hôm nay sẽ công bố số liệu về lượng dự trữ dầu của nước này trong báo cáo hàng tuần. Các nhà phân tích dự đoán kho dự trữ dầu thô của Mỹ đang đầy lên, sau khi đã giảm 10 tuần liên tiếp.
Trong khi đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo sản lượng dầu của Mỹ sẽ vượt Saudi Arabia, đạt trên 10 triệu thùng/ngày trong năm 2018. Các nhà phân tích cũng lo ngại rằng mức tăng sản lượng dầu từ Mỹ, Canada và Brazil sẽ nhiều hơn so với mức tăng của nhu cầu dầu toàn cầu trong thời gian từ nay cho tới hết năm 2018.
Trong những ngày vừa qua giá dầu đã liên tiếp tăng mạnh, thu hút các quỹ dự phòng rót tiền vào thị trường này. Các quỹ dự phòng và nhà quản lý quỹ khác đã gia tăng lượng mua vào khi thấy giá thấp rồi bán ra giá cao đối với 6 loại hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn quan trọng nhất liên quan đến dầu mỏ thêm 44 triệu thùng và đạt mức kỷ lục 1.484 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 23/1.
Nhu cầu tiêu thụ dầu đang tăng nhanh do tăng trưởng khá đồng đều ở các nền kinh tế lớn trên thế giới. Trong khi đó, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu mỏ chủ chốt khác đã nhắc lại cam kết đối với thỏa thuận kiềm chế nguồn cung của họ. Ngoài ra, lượng dầu trong các kho dự trữ trên toàn cầu đang đi xuống. Kết quả giá dầu Brent đã tăng gần ba lần trong hai năm qua, hiện đã vượt mức trung bình của chu kỳ từ năm 1998 đến năm 2016 (64 USD/thùng) và đang tiến tới mức trung bình của 10 năm (82 USD/thùng).
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số rủi ro đối với giá dầu, bao gồm sự gia tăng hoạt động khai thác dầu đá phiến ở Mỹ, việc tuân thủ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài OPEC, sự gia tăng sản lượng dầu từ các nguồn không phải dầu đá phiến tại các nước ngoài OPEC, hoặc nhu cầu đi xuống do giá tăng cao.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần giữa lúc thị trường đang dõi theo Thông điệp liên bang của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Giá vàng giao ngay giảm 0,22% xuống 1.336,99 USD/ounce, sau khi đã có lúc rơi xuống mức thấp nhất trong vòng một tuần là 1.334,1 USD/ounce lúc đầu phiên; vàng giao kỳ hạn tháng 4/2018 cũng giảm 0,38% (5,1 USD) xuống khép phiên ở mức 1.340 USD/ounce.
Với những kim loại khác, giá bạc giảm 0,3% xuống 17,11 USD/ounce, trong khi giá bạch kim cũng để mất 0,9% xuống 995 USD/ounce sau khi đã có lúc rơi xuống mức thấp nhất của một tuần là 987,49 USD/ounce trong cùng phiên.
Chỉ số USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – giảm 0,18% xuống còn 89,19.
Bên cạnh việc dõi theo Thông điệp liên bang của Tổng thống Donald Trump để tìm kiếm những nhận định về đồng USD, thị trường cũng đang đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ quyết liệt hơn trong lộ trình nâng lãi suất của nước này. Cuộc họp của Fed sẽ kết thúc vào ngày 31/1, giữa lúc nền kinh tế Mỹ đang phát đi những tín hiệu tích cực.
Theo nhà phân tích Jonathan Butler của công ty Mitsubishi, số liệu về thị trường việc làm Mỹ công bố vào ngày thứ Sáu tới nhiều khả năng sẽ củng cố bức tranh tươi sáng của nền kinh tế lớn nhất thế giới. Điều này sẽ hỗ trợ việc tăng lãi suất và qua đó tạo áp lực lên giá vàng trong thời gian ngắn hạn.
Song ông Jonathan Butler nhận định đồng USD vẫn đang trong đà đi xuống về dài hạn. Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, do một khi đồng bạc xanh yếu đi sẽ làm gia tăng sức hấp dẫn của các tài sản được định giá bằng đồng USD như vàng.
Liên quan đến vàng, thông tin cho hay tại Ấn Độ - quốc gia tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới - các cửa hàng trang sức đang trì hoãn mua vàng bởi dự đoán chính phủ nước này sẽ thông báo một đợt giảm thuế nhập khẩu đối với kim loại quý này trong dự thảo ngân sách được công bố vào ngày 1/2 tới.
Những người kinh doanh vàng tại Ấn Độ đã lên tiếng hối thúc chính phủ giảm thuế nhập khẩu, để ngăn chặn tình trạng buôn lậu vàng, sau khi vào tháng 8/2013 New Delhi áp mức thuế nhập khẩu lên tới 10%, để thu hẹp thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
Mức thuế nhập khẩu thấp hơn có thể thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ vàng của Ấn Độ và hỗ trợ giá của kim loại quý này đang được giao dịch gần mức cao nhất trong 17 tháng. Phó Chủ tịch Hiệp hội Đồ trang sức bằng vàng Ấn Độ (IBJA) Saurabh Gadgil, dự báo mức thuế nhập khẩu vàng có thể giảm 2-4% và quyết định giảm thuế là cần thiết để ngăn chặn tình trạng buôn lậu và buôn bán trái phép.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 3 tăng 0,05 US cent tương đương 0,4% lên 13,72 US cent/lb, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ 16/1 là 13,75 US cents. Đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 90 US cent tương đương 0,3% lên 362,30 USD/tấn. Đường đang tiến tới tháng giảm 10% giá trị.
Cà phê tiếp tục giảm giá, với arabica giao tháng 3 giảm 2,65 US cent tương đương 2,12% xuống 1,223 USD/lb. Robusta cũng giao tháng 3 giảm 29 USD tương đương 1,7% xuống 1.728 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

64,50

-1,06

-1,66%

Dầu Brent

USD/thùng

69,02

-0,44

-0,63%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

43.470,00

-330,00

-0,75%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,17

-0,02

-0,69%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

187,59

-1,95

-1,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

206,19

-0,98

-0,47%

Dầu khí

USD/tấn

612,50

-6,50

-1,05%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.390,00

-440,00

-0,75%

Vàng New York

USD/ounce

1.342,00

-2,00

-0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.674,00

+19,00

+0,41%

Bạc New York

USD/ounce

17,11

-0,06

-0,33%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,00

+0,10

+0,17%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

998,18

-1,25

-0,13%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.062,28

+5,30

+0,50%

Đồng New York

US cent/lb

319,10

+0,20

+0,06%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.050,00

-35,00

-0,49%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.207,00

-18,00

-0,81%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.496,00

-54,00

-1,52%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

21.625,00

-300,00

-1,37%

Ngô

US cent/bushel

361,50

+2,75

+0,77%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

457,25

+8,00

+1,78%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,00

+0,50

+0,19%

Gạo thô

USD/cwt

12,41

-0,02

-0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

1.000,25

+8,75

+0,88%

Khô đậu tương

USD/tấn

340,50

+3,10

+0,92%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,08

+0,21

+0,64%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

498,30

+2,10

+0,42%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.970,00

+24,00

+1,23%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,30

-2,65

-2,12%

Đường thô

US cent/lb

13,72

+0,05

+0,37%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

148,10

-4,50

-2,95%

Bông

US cent/lb

77,03

-1,33

-1,70%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

467,80

-10,00

-2,09%

Cao su TOCOM

JPY/kg

193,10

-2,40

-1,23%

Ethanol CME

USD/gallon

1,39

0,00

-0,22%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg