Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 2 liên tiếp
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu giảm. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 8/2019 giảm 96 UScent xuống 58,47 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 9/2019 giảm 93 US cent xuống 64,74 USD/thùng, giao tháng 8/2019 chốt phiên gần như không thay đổi ở 66,55 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều tăng tuần thứ 2 liên tiếp, còn trong cả tháng 6/2019 thì dầu Brent đã tăng hơn 20%, trong khi dầu WTI tăng hơn 25%.
Tuần qua, các nhà đầu tư hướng sự chú ý về các cuộc đàm phán thương mại giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ, Trung Quốc trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới - G20 và cuộc họp bàn về sản lượng dầu của Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
OPEC và một số nước ngoài khối này gồm cả Nga, được biết đến là nhóm OPEC+, sẽ tổ chức họp bàn về khả năng gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu trong hai ngày 1-2/7 tại Vienna, Áo. Các nước thuộc OPEC+ hiện nhất trí cắt giảm sản lượng dầu 1,2 triệu thùng/ngày kể từ ngày 1/1/2019.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ngày 26/6 cho biết, trong tuần kết thúc ngày 21/6, dự trữ dầu thô thương mại của Mỹ giảm 12,8 triệu thùng so với tuần trước đó. Ở mức 469,6 triệu thùng, dự trữ dầu thô của nước này vượt 5% so với mức trung bình 5 năm cho thời điểm này của năm.
Tại Iran, trong một tuyên bố đăng trên website chính thức ngày 26/6, Lãnh tụ tinh thần tối cao của nước này, Đại giáo chủ Ali Khamenei cho rằng việc Mỹ đề nghị đàm phán với Iran là một sự "lừa dối", đồng thời khẳng định Iran sẽ không lùi bước trước các biện pháp trừng phạt mà Mỹ thông báo mới đây, điều đã gây ra những lo ngại về nguồn cung năng lượng toàn cầu.
Kim loại quý: Giá vàng tăng
Phiên cuối tuần, giá vàng gần như không thay đổi so với phiên trước đó khi các nhà đầu tư chờ đợi những thông tin về cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới - G20. Giá vàng giao ngay đi ngang ở mức 1.409,33 USD/ounce. Trong khi đó vàng giao sau tăng 0,1% lên 1.413,7 USD/ounce, tính chung cả tuần giá tăng gần 1%, còn tháng 6 giá tăng nhiều nhất trong 3 năm, tăng 8%, do dự đoán Cục dự trữ liên bang sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ. Như vậy, trong quý 2/2019 giá vàng tăng 9,1%, mạnh nhất kể từ quý 4/2016.
Ngược lại với giá vàng, đồng USD lại phải ghi nhận tháng tăng yếu nhất kể từ đầu năm 2018 tới nay. Việc thị trường đặt cược vào việc cắt giảm lãi suất của Fed đã đẩy Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – giảm 1,7% trong tháng Sáu.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell vào cùng ngày cho biết triển vọng kinh tế Mỹ đã chuyển hướng ảm đạm hơn kể từ đầu tháng 5/2019 với những bất ổn gia tăng liên quan tới thương mại và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, khiến Fed phải xem xét lại chính sách lãi suất.
Song Chủ tịch chi nhánh Fed ở St. Louis, James Bullard lại không cho rằng kinh tế Mỹ hiện đang trong tình hình khó khăn đủ để Fed cắt giảm lãi suất đi 0,5 điểm phần trăm tại cuộc họp vào cuối tháng Bảy tới.
Thị trường vẫn hy vọng cuộc gặp này sẽ giúp giải quyết những tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm, sắt thép tăng
Giá đồng ổn định trong phiên giao dịch cuối tuần và cũng là cuối tháng, trước cuộc họp của các lãnh đạo G20, nhưng có quý giảm mạnh nhất kể từ năm 2015 do tranh chấp thương mại Mỹ - Trung kéo dài ảnh hưởng tới tăng trưởng và nhu cầu. Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London đóng cửa giảm 0,1% xuống 5.993 USD/tấn. Giá kim loại đã giảm 7,4% trong quý 2/2019.
Đồng USD giảm giá cũng hỗ trợ các kim loại cơ bản, khiến các hàng hóa định giá bằng USD rẻ hơn cho các nhà nhập khẩu sử dụng đồng tiền khác. Các khách hàng mua đồng Trung Quốc đang săn nguồn kim loại thay thế khi quốc gia tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới tăng cường hạn chế nhập phế liệu đồng loại cao cấp bắt đầu vào ngày 1/7.
Lo lắng về nguồn cung dịu đi sau khi cuộc đình công kéo dài 2 tuần tại mỏ đồng Chuquicamata của Chile kết thúc, khi ba công đoàn bỏ phiếu chấp nhận đề nghị mới nhất từ Codelco, nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới.
Giá quặng sắt của Trung Quốc đạt kỷ lục trong phiên cuối tuần và có quý tăng mạnh nhất kể từ cuối năm 2016, bởi dự đoán nguồn cung nguyên liệu thô tại nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới này sẽ vẫn thắt chặt trong nửa cuối năm.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 2,1% lên 838,5 CNY. Trong phiên giá đã tăng khoảng 2,7% lên 844 CNY (122,94 USD)/tấn, cao nhất kể từ năm 2014 khi Trung Quốc bắt đầu giao dịch quặng sắt kỳ hạn.
Hợp đồng này đã tăng 7 tháng liên tiếp và tăng 47% trong quý 2/2019, tăng mạnh nhất kể từ quý 4/2016.
Dự trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc giảm xuống 116,75 triệu tấn tính tới tuần trước, mức thấp nhất kể từ đầu năm 2017, theo số liệu của SteelHome, phản ánh ảnh hưởng của nguồn cung giảm từ Brazil.
Giá thép kỳ hạn tăng phiên thứ 8 liên tiếp, dài nhất kể từ tháng 8/2017, bởi dự trữ giảm và việc cắt giảm sản lượng bắt buộc tại một số trung tâm thép. Hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,7% lên 4.065 CNY/tấn, gần mức đỉnh trong hơn 8 năm đã chạm tới trong này 27/6. Giá tăng 6,5% trong tuần, tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2018. Thép cuộn cán nóng đóng cửa tăng 0,3% lên 3.953 CNY/tấn và tính chung cả tuần tăng 6,6%, tăng mạnh nhất kể từ tháng 12/2018.
Nông sản: Giá cà phê chạm mức cao nhất trong năm 2019
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 6/2019, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 2,75 US cent hay 2,6% lên 1.0945 USD/lb, sau khi tăng lên 1.1050 USD, cao nhất kể từ ngày 3/12/2018. Tính chung cả tháng 6, giá cà phê tăng 2,2%, là tháng tăng thứ 2 liên tiếp. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 cùng phiên cũng tăng 21 USD hay 1,5% lên 1.451 USD/tấn.
Mặc dù chưa có mối đe dọa trực tiếp về sương giá ở Brazil, nhưng các đại lý vẫn thận trọng khi đưa ra dự báo nhiệt độ thấp cho những ngày tới. Đồng nội tệ của Brazil mạnh lên gần đây cũng đang hỗ trợ giá cà phê.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo giảm trong phiên cuối tháng do hoạt động bán tháo trên sàn Thượng Hải. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1,1 JPY hay 0,6% xuống 193,5 JPY (1,8 USD)/kg. Giá đã giảm 3,2% trong tuần này và giảm 0,4% trong tháng. Như vậy, cao su Tokyo đã giảm liên tiếp 3 tháng.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải trong phiên cuối tháng giảm 290 CNY đóng cửa tại 11.355 CNY (1.654 USD)/tấn. Dự trữ cao su tại các kho của sàn Thượng Hải giảm 2,3% so với một tuần trước.

Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá 31/5/2019

Giá 22/6

Giá 29/6

29/6 so với 28/6

29/6 so với 28/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,50

57,43

58,47

-0,96

-1,62%

Dầu Brent

USD/thùng

61,99

65,20

64,74

-0,93

-1,42%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38,900,00

40.610,00

40.870,00

-480,00

-1,16%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,45

2,19

2,31

-0,02

-0,69%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

177,14

185,61

189,66

-1,83

-0,96%

Dầu đốt

US cent/gallon

184,04

191,58

193,94

-2,18

-1,11%

Dầu khí

USD/tấn

577,50

587,00

595,00

+1,00

+0,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56,070,00

57.770,00

58.920,00

-110,00

-0,19%

Vàng New York

USD/ounce

1,311,10

1.400,10

1.413,70

+1,70

+0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

4,540,00

4.811,00

4.868,00

-17,00

-0,35%

Bạc New York

USD/ounce

14,57

15,37

15,34

+0,05

+0,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

51,20

53,20

53,50

+0,70

+1,33%

Bạch kim

USD/ounce

793,72

809,88

834,75

+20,81

+2,56%

Palađi

USD/ounce

1,328,30

1.504,46

1.537,65

-14,48

-0,93%

Đồng New York

US cent/lb

264,00

270,40

271,35

-0,30

-0,11%

Đồng LME

USD/tấn

5,830,00

5.971,00

5.993,00

+4,00

+0,07%

Nhôm LME

USD/tấn

1,794,50

1.767,50

1.800,00

+10,00

+0,56%

Kẽm LME

USD/tấn

2,524,00

2.433,00

2.495,00

+20,00

+0,81%

Thiếc LME

USD/tấn

18,715,00

19.025,00

18.825,00

-25,00

-0,13%

Ngô

US cent/bushel

427,00

453,25

431,50

-19,50

-4,32%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

503,00

526,75

527,25

-19,50

-3,57%

Lúa mạch

US cent/bushel

314,50

285,50

276,50

-3,00

-1,07%

Gạo thô

USD/cwt

11,46

11,70

11,58

+0,08

+0,70%

Đậu tương

US cent/bushel

877,75

928,75

923,00

+10,75

+1,18%

Khô đậu tương

USD/tấn

321,30

325,00

322,90

+2,90

+0,91%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,59

28,98

28,83

+0,42

+1,48%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

459,50

469,30

455,90

+3,90

+0,86%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2,400,00

2.513,00

2.425,00

-28,00

-1,14%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

104,60

97,95

109,45

+2,75

+2,58%

Đường thô

US cent/lb

12,10

12,74

12,62

-0,16

-1,25%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

108,40

102,10

104,05

+2,30

+2,26%

Bông

US cent/lb

68,08

67,16

66,08

-0,01

-0,02%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

305,50

386,30

375,10

-3,60

-0,95%

Cao su TOCOM

JPY/kg

194,10

202,10

192,90

-0,60

-0,31%

Ethanol CME

USD/gallon

1,51

1,56

1,53

-0,05

-3,48%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters

Nguồn: Vinanet