Năng lượng: Giá dầu và khí gas đều tăng mạnh
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng mạnh sau khi Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh, trong đó có Nga (OPEC+) quyết định cắt giảm hơn nữa sản lượng khai thác dầu.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) trên sàn New York tăng 0,77 USD/thùng, tương đương, 1,3%, đạt 59,2 USD/thùng; còn dầu Brent trên sàn London tăng 1 USD/thùng, tương đương 1,6%, đạt 64,39 USD/thùng. Đây là mức giá đóng cửa cao nhất của cả 2 loại dầu kể từ tháng 9/2019. Tính chung cả tuần, giá dầu WTI tăng 7,3%, mức tăng mạnh nhất kể từ 21/6; dầu Brent tăng 6,5%, nhiều nhất kể từ 20/9.
Kết thúc cuộc họp định kỳ về chính sách sản lượng diễn ra tại trụ sở của OPEC ở Vienna, Áo, vào ngày 12/12/2019, OPEC+ nhất trí cắt giảm sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày đến hết tháng 3/2020. Như vậy, tổng mức cắt giảm sản lượng của khối từ ngày 1/1/2020 sẽ là 1,7 triệu thùng/ngày. Từ đầu năm đến nay OPEC đã thực hiện thỏa thuận giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày để hỗ trợ giá dầu.
Theo tin từ CNBC, Bộ trưởng Bộ Dầu lửa Saudi Arbia, ông Abdulaziz bin Salman, nói với các nhà báo rằng nước này sẽ chịu trách nhiệm đối với 167.000 thùng dầu/ngày trong phần sản lượng giảm thêm như quy định trong thỏa thuận; ngoài ra, Saudi Arabia sẽ giảm sản lượng thêm 400.000 thùng/ngày. Như vậy, tổng mức cắt giảm sản lượng thực tế của OPEC+ sẽ đạt 2,1 triệu thùng/ngày nếu các nước còn lại trong liên minh thực thi đúng cam kết. Saudi Arabia cũng nhắc lại yêu cầu rằng những nước đang khai thác dầu vượt hạn ngạch như Iraq và Nigeria phải tuân thủ đúng thỏa thuận. Ông Abdulaziz nói việc nước này giảm thêm sản lượng sẽ tùy thuộc vào việc các quốc gia khác trong khối có thực hiện đúng thỏa thuận hay không.
Trong một tuyên bố sau cuộc họp, OPEC+ cho biết sẽ rà soát lại hạn ngạch tại một cuộc họp bất thường dự kiến diễn ra vào ngày 5-6/3/2020.
Tuy nhiên, giới phân tích không rõ liệu OPEC+ sẽ kéo dài thỏa thuận cắt giảm sản lượng đến khi nào khi mà Saudi Arabia đưa ra lập trường mới rằng họ có thể phá thỏa thuận nếu các quốc gia khác không tuân thủ đầy đủ.
Đối với mặt hàng khí gas, giá trên thị trường Mỹ phiên cuối tuần giảm gần 4% do dự báo thời tiết trong 2 tuần tới không lạnh như dự báo. Kết thúc phiên này, khí gas kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn New York giảm 9,3 US cent, tương đương 3,8%, xuống 2,334 USD/mmBTU. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn tăng 3%.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Phiên cuối tuần, giá vàng giảm do số liệu từ Mỹ cho thấy thị trường việc làm của nước này vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Kết thúc phiên này, vàng giao ngay giảm 1% xuống 1.460,39 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 1,2% xuống 1.465,1 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng đã giảm 0,3%.
Số liệu mới nhất cho thấy tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 11/2019 mạnh nhất trong 10 tháng qua, trong đó lĩnh vực phi nông nghiệp có thêm 266.000 việc làm. Điều này cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn đang trên đà tăng trưởng ở mức vừa phải, bất chấp sự suy giảm kéo dài của lĩnh vực chế tạo.
Thông tin trên góp phần đẩy đồng USD đi lên trong phiên này. Thị trường chứng khoán Mỹ cũng ngập trong sắc xanh khi các số liệu kinh tế củng cố thêm tâm trạng lạc quan của nhà đầu tư sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng các cuộc đàm phán thương mại với Trung Quốc đang "đi đúng hướng". Trong một cử chỉ thiện trí, phía Trung Quốc cũng cho biết họ sẽ miễn thuế nhập khẩu đối với một số lô hàng đậu nành và thịt lợn từ Mỹ.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 2,2% xuống 16,57 USD/ounce, sau khi có lúc xuống chỉ 16,50 USD, thấp nhất kể từ 7/8; palađi giảm 0,6% xuống 891,68 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá thép giảm mạnh
Thép vừa trải qua tuần giảm giá mạnh nhất trong vòng gần 4 tháng mặc dù tăng ở phiên cuối tuần.
Cụ thể, trong phiên cuối tuần, thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 0,2% lên 3.437 CNY (488,29 USD)/tấn; song tính chung cả tuần giảm 5,1%, - nhiều nhất kể từ 11/8/2019, do nguồn cung và tồn trữ đều tăng.
Tồn trữ trữ thép cây tại Trung Quốc trong tuần kết thúc ngày 5/12/2019 tăng lên 2,89 triệu tấn so với tuần trước đó, tuần tăng đầu tiên trong 9 tuần, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cuộn cán nóng cùng phiên giảm 0,2% xuống 3.621 CNY/tấn, trong khi giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 0,8% lên 13.950 CNY/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,2% xuống 621 CNY/tấn.
Trên sàn London, phiên cuối tuần, giá đồng tăng mạnh do số liệu việc làm của Mỹ tích cực cho thấy nền kinh tế nước này vẫn tăng trưởng ổn định. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,7%, nhiều nhất kể từ ngày 17/9/2019, lên 5.990 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đồng tăng khoảng 2%. Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm 200 tấn xuống 113.400 tấn, thấp nhất kể từ ngày 14/3/2019.
Tuy nhiên, từ tháng 6/2018 đến nay, giá đồng đã giảm gần 20% do các nhà đầu tư lo ngại về rào cản thương mại và nhu cầu đồng suy yếu.
Nông sản: Giá đường, cà phê và cao su đều tăng
Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica có lúc đạt mức cao nhất 1 năm, trong khi giá đường tăng lên mức cao nhất 9 tháng.
Kết thúc phiên này, arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York giảm 0,5 US cent, tương đương 0,4%, xuống 1,2435 USD/lb; trong phiên có lúc đạt 1,2725 USD/lb, cao nhất kể từ tháng 10/2018; robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2 USD tương đương 0,2% xuống 1.399 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 0,07 US cent, tương đương 0,5%, lên 13,15 US cent/lb; sau khi có lúc đạt 13,19 US cent/lb, cao nhất kể từ cuối tháng 2/2019; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 2 USD tương đương 0,6% lên 347,3 USD/tấn.
Đối với nhóm ngũ cốc, giá đậu tương tại Mỹ tăng phiên thứ 4 liên tiếp sau khi Trung Quốc cho biết sẽ miễn giảm thuế nhập khẩu đối với một số sản phẩm nông nghiệp của Mỹ, làm dấy lên lạc quan trong giới đầu tư về khả năng Washington và Bắc Kinh có thể đạt được 1 thỏa thuận thương mại.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 5-1/4 US cent lên 8,89-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 26/11/2019; lúa mì kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 3/4 US cent lên 5,24-1/2 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 3/2020 không thay đổi ở mức 3,76-3/4 USD/bushel.
Giá cao su tại Tokyo phiên cuối tuần có lúc tăng lên mức cao nhất 5,5 tháng trong bối cảnh nguồn cung bị thắt chặt sau khi các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới xem xét hạn chế xuất khẩu. Tuy nhiên, sau đó giá giảm trở lại do các nhà đầu tư bán chốt lời trước ngày nghỉ cuối tuần.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn TOCOM giảm 1 JPY xuống 197 JPY (1,81 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 199,7 JPY/kg, cao nhất kể từ ngày 24/6/2019; tính chung cả tuần, giá tăng 5,3%, tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 7/2019.
Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 240 CNY lên 13.280 CNY (1.887 USD)/tấn, gần mức cao nhất vào cuối tháng 1/2018 trong ngày thứ năm (5/12/2019).
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 30/11

Giá 7/12

7/12so với 6/12

7/12so với 6/12 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,17

59,20

+0,77

+1,32%

Dầu Brent

USD/thùng

60,49

64,39

+1,00

+1,58%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.900,00

40.000,00

+360,00

+0,91%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,28

2,33

-0,09

-3,83%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

159,10

164,74

+2,63

+1,62%

Dầu đốt

US cent/gallon

187,85

195,21

+1,91

+0,99%

Dầu khí

USD/tấn

572,00

587,25

+3,75

+0,64%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.220,00

56.790,00

+500,00

+0,89%

Vàng New York

USD/ounce

1.472,70

1.465,10

-18,00

-1,21%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.142,00

5.088,00

-51,00

-0,99%

Bạc New York

USD/ounce

17,11

16,60

-0,46

-2,71%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,10

58,00

-1,30

-2,19%

Bạch kim

USD/ounce

896,09

896,73

-1,46

-0,16%

Palađi

USD/ounce

1.841,67

1.879,95

+5,18

+0,28%

Đồng New York

US cent/lb

266,15

272,50

+6,20

+2,33%

Đồng LME

USD/tấn

5.864,00

5.990,00

+102,00

+1,73%

Nhôm LME

USD/tấn

1.770,00

1.765,00

+18,00

+1,03%

Kẽm LME

USD/tấn

2.273,50

2.238,00

+4,00

+0,18%

Thiếc LME

USD/tấn

16.495,00

17.075,00

+275,00

+1,64%

Ngô

US cent/bushel

381,25

376,75

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

541,75

524,50

+0,75

+0,14%

Lúa mạch

US cent/bushel

309,75

292,25

-3,00

-1,02%

Gạo thô

USD/cwt

12,49

12,31

+0,02

+0,12%

Đậu tương

US cent/bushel

876,75

889,50

+5,25

+0,59%

Khô đậu tương

USD/tấn

293,10

299,30

-2,20

-0,73%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,58

31,22

+0,72

+2,36%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

456,60

458,40

+3,90

+0,86%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.568,00

2.607,00

+27,00

+1,05%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,05

124,80

-0,05

-0,04%

Đường thô

US cent/lb

12,94

13,18

+0,10

+0,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,60

95,15

-0,60

-0,63%

Bông

US cent/lb

65,36

66,00

+1,49

+2,31%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

416,60

406,10

+0,80

+0,20%

Cao su TOCOM

JPY/kg

186,70

197,90

+0,90

+0,46%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

1,38

+0,00

+0,07%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg