Trên thị trường năng lượng, giá dầu ít thay đổi trong bối cảnh nhà đầu tư tiếp tục lo ngại nhu cầu nhiên liệu của Mỹ yếu trong khi các nhà sản xuất toàn cầu lo sợ làm sóng thứ 2 của đại dịch Covid-19 là một rủi ro lớn cho sự phục hồi của thị trường.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 10 giảm 9 US cent xuống 45,37 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 4 US cent lên 42,93 USD/thùng.
Các nguồn tin OPEC+ cho biết tổ chức này không có khả năng thay đổi chính sách sản lượng của họ, hiện nay đang cắt giảm sản lượng 7,7 triệu thùng/ngày so với mức giảm kỷ lục 9,7 triệu thùng/ngày cho tới tháng này. Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia cho biết nhu cầu dầu toàn cầu sẽ trở lại mức trước đại dịch ngay trong quý 4, trong khi kêu gọi tuân thủ thỏa thuận giảm sản lượng toàn cầu.
Trong khi đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết tồn kho dầu thô của nước này giảm 1,6 triệu thùng trong tuần trước, trong khi nhu cầu nhiên liệu giảm 14% so với cùng kỳ năm trước trong giai đoạn 4 tuần qua.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm hơn 3% sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp tháng 7/2020 cho thấy họ hầu như không có ý định giới hạn lợi suất trái phiếu. Giới hạn lợi suất trái phiếu có thể làm giảm sức hấp dẫn của trái phiếu Kho bạc Mỹ và gây áp lực lên đồng USD, qua đó thúc đẩy sức hấp dẫn của vàng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 3,4% xuống 1.932,09 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 2,1% xuống 1.970,30 USD/ounce.
Ngay sau khi Fed công bố biên bản cuộc họp, lợi suất trái phiếu Mỹ tăng và đồng USD tiến thêm 0,8%, qua đó kết thúc 5 phiên suy giảm liên tiếp xuống mức thấp nhất trong hai năm trước đó.
Biên bản của Fed nhắc lại rằng cuộc suy thoái kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra đang đối mặt với một triển vọng rất không chắc chắn và cần phải có thêm kích thích tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế.
Ông Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao của công ty môi giới đầu tư OANDA, cho biết một trong những mối lo ngại là Fed có thể sẽ áp dụng biện pháp kiểm soát đường cong lợi suất - vốn là "chất xúc tác" mạnh cho đà suy yếu của đồng USD tiếp tục kéo dài. Nhưng Fed cho biết họ không xem xét điều đó vào thời điểm này.
Ông Jeffrey Sica, người sáng lập công ty tư vấn đầu tư Circle Squared Alternative Investments, cho biết kỳ vọng rằng Fed sẽ có những động thái hỗ trợ nền kinh tế đã trở thành "chất xúc tác" cho việc bán vàng ra tại thời điểm này. Chuyên gia Sica nói thêm rằng Fed không đưa ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy họ sẽ tạo ra lượng thanh khoản cao như mức các nhà đầu tư vàng kỳ vọng để đẩy được giá kim loại quý này lên trên ngưỡng 2.000 USD/ounce.
Các biện pháp kích thích và môi trường lãi suất thấp đã đẩy giá vàng lên mức cao nhất từ trước tới nay vào ngày 7/8, nhưng đà tăng của giá vàng đã suy giảm kể từ đó.
Vàng cũng chịu áp lực vào ngày 19/8 khi một quan chức cấp cao của chính quyền Tổng thống Donald Trump cho biết Chính phủ có thể đạt được một thỏa thuận về gói cứu trợ có quy mô nhỏ hơn và trị giá khoảng 500 tỷ USD. Con số này trái ngược với mức từ 1.000 – 3.000 tỷ USD như dự kiến trước đó.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 3,7% xuống 26,61 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 2,9% xuống 929,53 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất trong hơn 2 năm do USD yếu, tồn kho kim loại đồng thấp và sản lượng giảm. Trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,8% lên 6.683 USD/tấn sau k có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 tại 6.707 USD.
Sản lượng đồng đã tinh chế của Trung Quốc trong tháng 7 giảm 5,3% so với tháng liền trước, xuống 814.000 tấn. Rio Tinto cắt giảm triển vọng đồng đã tinh chế của họ trong năm nay xuống 135.000 – 175.000 tấn từ 165.000 – 205.000 tấn.
Trên toàn cầu, hoạt động luyện đồng trong tháng 7 sụt giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 năm. Trong khi đó USD ở mức thấp nhất 27 tháng do tình trạng bất ổn về sự phục hồi kinh tế và gói kích thích tài chính của Mỹ. Trung Quốc đã cấp hạn ngạch nhập khẩu thêm cho 14.530 tấn đồng phế liệu và 2.610 tấn nhôm phế liệu trong năm 2020. Tổng dự trữ đồng của sàn LME ở mức thấp nhất kể từ năm 2007 cũng hỗ trợ giá.
Giá quặng sắt Trung Quốc tăng phiên thứ 5 liên tiếp và đạt mức cao nhất trong vòng 6 năm do dự trữ quặng sắt tại các cảng của nước này giảm và sự lạc quan về nhu cầu quặng sắt với đợt bơm vốn mới vào nền kinh tế Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,9% lên 857 CNY (123,84 USD)/tấn; quặng sắt tại Singapore tăng 0,5% lên 123,3 USD/tấn. Giá t thép thanh ở Thượng Hải giảm 1,2%, thép cuộn cán nóng giảm 0,2%. Thép không gỉ giảm 1,1%.
Các nhà máy tại Trung Quốc, nước tiêu thụ và sản xuất kim loại hàng đầu thế giới này tiếp tục tăng sản lượng thép thô, sản xuất một khối lượng kỷ lục trong tháng 7 do nhu cầu bùng nổ đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng.
Các chiến lược gia của ING cho biết những bất ổn về nguồn cung của Brazil trong những tháng gần đây cũng hỗ trợ thị trường này, nhưng khi những bất ổn này lắng xuống thì giá dự kiến sẽ giảm đi.
Tồn trữ quặng sắt tại cảng của Trung Quốc đã giảm khoảng 1,6 triệu tấn xuống còn 111,6 triệu tấn so với mức ghi nhận vào ngày 13/8, cho thấy áp lực với nguồn cung quặng sắt hàm lượng trung bình.
Trong 3 tháng qua, giá quặng sắt đã tăng gần 50%, khiến tỷ trọng chi phí của nguyên liệu này trong sản xuất thép tại Trung Quốc tăng lên mức cao nhất một thời đại. Trong đó, giá nhập khẩu quặng sắt 62% Fe lần đầu tiên vượt giá than cốc.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1,7 US cent hay 1,4% xuống 1.1935 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 12 USD hay 0,9% xuống 1.384 USD/tấn.
Lượng cà phê lưu kho trên sàn New York đạt tổng cộng 1,35 triệu bao trong ngày 19/8, giảm mạnh từ 2,3 triệu bao tại cùng thời điểm năm ngoái. Kho dự trữ ICE là cà phê arabica sạch, thường có chất lượng tốt hơn so với cà phê chưa sạch. Phần lớn cà phê arabica của Brazil là chưa sạch.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 kết thúc phiên tăng 0,35 US cent hay 2,7% lên 13,24 US cent/lb, cao nhất kể từ ngày 5/3, do các yếu tố cơ bản vẫn tích cực; đường trắng kỳ hạn tháng 10 tăng 6,3 USD hay 1,7% lên 379,7 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các quỹ đang tiếp tục mua ròng lớn do vấn đề mùa vụ tại Thái Lan, Nga và Liên minh Châu Âu làm giảm bớt ảnh hưởng của sản lượng tăng ở Brazil.
Giá cao su trên sàn Osaka giảm sau khi số liệu cho thấy xuất khẩu của Nhật Bản giảm tháng thứ 5 liên tiếp, đang phá đi hy vọng sự phục hồi kinh tế nhanh chóng từ khủng hoảng virus corona.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2021 đóng cửa giảm 0,4 JPY xuống 176,5 JPY/kg.
Xuất khẩu của Nhật Bản trong tháng 7 giảm 2 con số tháng thứ 5 liên tiếp, do khủng hoảng y tế gây thiệt hại cho xuất khẩu ô tô sang Mỹ, làm giảm triển vọng phục hồi do thương mại dẫn đầu.
Cao su trên sàn giao dịch Thượng Hải giao tháng 1/2021 giảm 45 CNY xuống 12.410 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 20/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,62

-0,31

-0,72%

Dầu Brent

USD/thùng

45,07

-0,30

-0,66%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.570,00

+120,00

+0,39%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,43

+0,01

+0,21%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

127,65

-1,40

-1,08%

Dầu đốt

US cent/gallon

124,34

-0,76

-0,61%

Dầu khí

USD/tấn

374,75

-2,00

-0,53%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.030,00

-120,00

-0,28%

Vàng New York

USD/ounce

1.941,70

-28,60

-1,45%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.632,00

-118,00

-1,75%

Bạc New York

USD/ounce

27,09

-0,40

-1,46%

Bạc TOCOM

JPY/g

92,30

-1,10

-1,18%

Bạch kim

USD/ounce

933,21

+0,38

+0,04%

Palađi

USD/ounce

2.164,64

+8,68

+0,40%

Đồng New York

US cent/lb

299,00

-4,80

-1,58%

Đồng LME

USD/tấn

6.685,00

+117,50

+1,79%

Nhôm LME

USD/tấn

1.793,50

+20,00

+1,13%

Kẽm LME

USD/tấn

2.505,00

+46,50

+1,89%

Thiếc LME

USD/tấn

17.640,00

+40,00

+0,23%

Ngô

US cent/bushel

339,50

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

521,50

-0,50

-0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

262,00

-0,75

-0,29%

Gạo thô

USD/cwt

12,24

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

913,50

-0,50

-0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

303,00

+0,50

+0,17%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,75

-0,22

-0,69%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

487,70

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.460,00

+15,00

+0,61%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,35

-1,70

-1,40%

Đường thô

US cent/lb

13,24

+0,35

+2,72%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

121,70

-0,20

-0,16%

Bông

US cent/lb

63,21

-0,56

-0,88%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

782,90

+28,90

+3,83%

Cao su TOCOM

JPY/kg

173,60

-2,90

-1,64%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

+0,02

+1,55%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg