Hãng Reuters ngày 25/8 đưa tin, các quan chức cấp cao của Mỹ và Trung Quốc điện đàm và ghi nhận tiến triển trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 mà hai bên đạt được vào tháng 1. Theo Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (USTR), trong cuộc điện đàm giữa Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc với 2 quan chức Mỹ gồm Đại diện Thương mại Robert Lighthizer và Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin, hai bên cam kết duy trì thành công của thỏa thuận.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên mức cao nhất trong 5 tháng do các nhà sản xuất dầu của Mỹ đóng cửa hầu hết các cơ sở khai thác ở ngoài khơi Vịnh Mexico trước khi bão Laura đổ bộ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent kỳ hạn tham chiếu tại thị trường London tăng 73 US cent, tương đương 1,6%, lên 45,86 USD/thùng; giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại thị trường New York cũng tăng 73 US cent (1,7%) lên 43,35 USD/thùng. Đây là những mức giá đóng cửa cao nhất kể từ ngày 5/3 – một ngày trước khi Saudi Arabia và Nga không thống nhất được kế hoạch cắt giảm sản lượng, và khoảng 1 tuần trước khi Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố COVID-19 là đại dịch.
Các nhà sản xuất dầu của Mỹ đã thu hẹp hoạt động khai thác trước khi bão Laura đổ bộ và ngừng hầu hết hoạt động của các nhà máy lọc dầu ở vùng duyên hải Texas/Louisiana. Ngày 25/8, các nhà sản xuất dầu Mỹ đã ngừng hoạt động 310 cơ sở khai thác dầu ngoài khơi và cắt giảm sản lượng lên tới 1,56 triệu thùng dầu thô/ngày, tương đương 84% sản lượng dầu khai thác ngoài khơi ở khu vực Vịnh Mexico.
Theo Trung tâm phòng chống bão quốc gia Mỹ, bão Laura dự kiến sẽ mạnh lên thành một cơn bão lớn với sức gió lên tới 185 km/giờ trước khi đổ bộ vào vùng duyên hải gần địa giới Texas-Louisiana vào sáng 27/8 (giờ địa phương).
Theo ông Jim Ritterbusch, Chủ tịch Ritterbusch and Associates, có trụ sở tại Galena, Illinois (Mỹ), giá dầu tăng mạnh trong phiên 25/8 chủ yếu do những quan ngại về ảnh hưởng của bão Laura đối với hoạt động sản xuất dầu ở ngoài khơi Vịnh Mexico.
Ông Ritterbusch cũng cho rằng diễn biến của bão Laura có thể “lấn át” báo cáo dự trữ dầu thô hàng tuần của Mỹ do Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố trong ngày 26/8 (giờ địa phương).
Trước đó, theo cuộc thăm dò ý kiến của hãng tin Reuters (Anh), giới phân tích dự báo dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần qua giảm tuần thứ năm liên tiếp.
Theo ông Bjornar Tonhaugen, người phụ trách các thị trường dầu mỏ của Rystad Energy, nhìn chung hoạt động sản xuất dầu trong tuần này có thể bị ảnh hưởng bất lợi của bão Laura, song thị trường dầu mỏ sẽ sớm tập trung sự chú ý trở lại vào diễn biến mới của dịch COVID-19.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giữa bối cảnh nhà đầu tư ngày càng lạc quan về mối quan hệ thương mại Mỹ-Trung, từ đó giảm quan tâm tới vàng. Giới đầu tư ngóng chờ bài phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powel ở Jackson Hole trong tuần này.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.920,91 USD/ounce, trong khi giá vàng giao sau giảm 0,8% xuống 1.923,1 USD/ounce.
Giám đốc mảng giao dịch kim loại tại High Ridge Futures, ông David Meger, cho rằng thị trường hiện rất lạc quan về mối quan hệ thương mại Mỹ-Trung, sau khi các quan chức thương mại hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc ngày 25/3 tái khẳng định cam kết đối với thỏa thuận thương mại Giai đoạn I.
Chủ tịch Fed Jerome Powell dự kiến sẽ có bài phát biểu tại cuộc họp các quan chức Fed diễn ra ngày 27/8 ở Jackson Hole, Wyoming (Mỹ). Fed hiện giữ lãi suất chủ chốt ở mức gần 0% - yếu tố có lợi cho tài sản không sinh lời như vàng.
Tuy nhiên, kinh tế Mỹ vẫn đang hồi phục khó khăn – là một trong những yếu tố vốn đẩy giá vàng tăng trong thời gian qua. Số liệu mới nhất cho thấy, niềm tin của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 8/2020 đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn sáu năm, giữa lúc các hộ gia đình lo ngại về thị trường lao động và thu nhập. Niềm tin người tiêu dùng Mỹ đi xuống và điều này sẽ buộc Mỹ tung ra thêm các gói kích thích kinh tế, qua đó củng cố triển vọng tích cực cho giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1% xuống 26,28 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,7% lên 922,08 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 0,4% lên 2.168,65 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do lượng đồng lưu kho trên sàn London thấp kỷ lục và đồng USD yếu đi. Tuy nhiên, xu hướng giá tăng bị kiềm chế bởi sự thiếu chắc chắn về nhu cầu trong tương lai. Kết thúc phiên giao dịch, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn Lodnon (hợp đồng tham chiếu) tăng 0,3% lên 6.533 USD/tấn. Kim loại này đã được giao dịch quanh mức 6.500 USD/tấn kể từ giữa tháng 7 đến nay. Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm xuống mức thấp nhất 14 năm, là 95.252 tấn, so với trên 250.000 tấn hồi tháng 5.
Giá sắt thép giảm trong phiên vừa qua. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên có thời điểm giảm 3,6% xuống 808 CNY/tấn, kết thúc phiên giảm 2,9% xuống 814 CNY/tấn; quặng sắt 62% nhập khẩu vào Trung Quốc trong phiên 24/8 giảm 1 USD xuống 125,5 USD/tấn.
Nhu cầu thép ở Trung Quốc không tăng nhanh như dự đoán, khiến giá nhóm kim loại này giảm. Giá thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn Thượng Hải giảm 0,5% xuống 3.773 CNY (546,03 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 0,2% xuống 3.938 CNY/tấn. Nguồn cung thép nhìn chung đang cao, tồn trữ cũng còn nhiều. Trong khi đó, nguồn vốn cho các dự án hạ tầng cơ sở nhìn chung hạn hẹp trong khi thị trường bất động sản vẫn trong sự kiểm soát chặt chẽ.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương Mỹ tăng do nhu cầu xuất khẩu sang Trung Quốc tăng và lo ngại sản lượng vụ thu hoạch mùa Thu của Mỹ sẽ không cao.
Giá đậu tương đã đạt mức cao nhất 7 tháng, trong khi ngô cao nhất hơn 6 tuần. Giá lúa mì cũng tăng mạnh, lên cao nhất kể từ 24/7 do nhà đầu tư mua mạnh sau phiên giảm giá trước đó.
Kết thúc phiên, ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 9-1/2 US cent lên 3,54-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ 10/7; đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 14-1/2 US cent lên 9,20-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì đỏ mềm vụ Đông kỳ hạn giao tháng 12 tăng 7-3/4 US cent lên 5,35-1/2 USD/bushel.
Bộ Nông nghiệp Mỹ đã hạ tỷ lệ diện tích ngô được đánh giá là đang phát triển tốt xuống 64% trong tuần vừa qua, giảm 5 điểm % so với tuần trước đó, tỷ lệ này ở đậu tương cũng bị giảm từ 72% của tuần trước nữa xuống 69%.
Giá cà phê arabica tăng 2% trong phiên vừa qua do lượng cà phê lưu kho giảm tiếp, trong khi đồng Brazil mạnh lên và dấu hiệu cho thấy nhu cầu cà phê cao. Kết thúc phiên giao dịch, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 2,8 US cent (2,3%) lên 1.2295 USD/lb, cao nhất trong 20 ngày; robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 11 USD (1,2%) lên 1.421 USD/tấn.
Giá cacao tăng trong phiên vừa qua do lo ngại về thời tiết khô hạn ở Bờ Biển Ngà có thể ảnh hưởng tới sản lượng vụ 2020/21 (bắt đầu từ 1/10 tới). Cacao kỳ hạn tháng 12 trên sàn New York tăng 28 USD, tương đương 1,1%, lên 2.487 USD/tấn, không xa so với mức cao nhất 5 tháng là 2.535 USD được thiết lập vào ngày 10/8; trên sàn London tăng 12 GBP (0,7%) lên 1.715 GBP/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,05 US cent (0,4%) lên 12,76 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 5,6 USD (1,5%) xuống 362,30 USD/tấn.
Trong thông báo gửi tới khách hàng của mình vào hôm qua, Rabobank cho biết: "Các quỹ hàng hóa đã mua ròng đuồng thô tuần thứ 8 liên tiếp, lý do để tránh lạm phát, và lo ngại chứng khoán tăng điểm không bền vững.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản đạt mức cao nhất 4 tuần trong phiên vừa qua do kỳ vọng nhu cầu sẽ tăng lên từ Trung Quốc giữa bối cảnh lạc quan về đàm phán thương mại Mỹ - Trung sau khi có dấu hiệu cho thấy các quan chức thương mại của 2 bên có thái độ rất thiện chí.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 1/2021 cuối phiên tăng 1,5 JPY (0,9%) lên 176,3 JPY (1,66 USD)/kg. Đầu phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ 7/8, là 178,7 JPY/kg. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, hợp đồng cao su giao cùng kỳ hạn tăng 70 CNY lên 12.545 CNY (1.815 USD)/tấn.

Giá hàng hóa thế giới sáng 26/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

43,45

+0,10

+0,23%

Dầu Brent

USD/thùng

45,86

+0,73

+1,62%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.940,00

+360,00

+1,18%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,48

-0,01

-0,44%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

139,80

+0,21

+0,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

126,35

+0,34

+0,27%

Dầu khí

USD/tấn

378,50

+7,75

+2,09%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.220,00

+120,00

+0,28%

Vàng New York

USD/ounce

1.935,00

+11,90

+0,62%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.596,00

+6,00

+0,09%

Bạc New York

USD/ounce

26,70

+0,27

+1,02%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,60

+0,80

+0,89%

Bạch kim

USD/ounce

931,30

+0,46

+0,05%

Palađi

USD/ounce

2.167,82

-5,02

-0,23%

Đồng New York

US cent/lb

295,90

+0,55

+0,19%

Đồng LME

USD/tấn

6.529,00

+13,00

+0,20%

Nhôm LME

USD/tấn

1.775,50

+5,00

+0,28%

Kẽm LME

USD/tấn

2.482,00

+36,50

+1,49%

Thiếc LME

USD/tấn

17,310.00

-260.00

-1.48%

Ngô

US cent/bushel

354,50

+9,50

+2,75%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

535,50

+7,75

+1,47%

Lúa mạch

US cent/bushel

271,50

+3,75

+1,40%

Gạo thô

USD/cwt

12,07

-0,21

-1,75%

Đậu tương

US cent/bushel

920,25

+14,50

+1,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,00

+3,00

+1,01%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,28

+0,33

+1,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

491,00

+1,70

+0,35%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.487,00

+28,00

+1,14%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,95

+2,80

+2,33%

Đường thô

US cent/lb

12,76

+0,05

+0,39%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

118,70

-0,95

-0,79%

Bông

US cent/lb

65,58

-0,24

-0,36%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

829,30

+19,00

+2,34%

Cao su TOCOM

JPY/kg

177,60

+1,30

+0,74%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

+0,01

+0,39%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg