Trên thị trường năng lượng, gía dầu tăng theo xu hướng chứng khoán giữa bối cảnh nhà đầu tư kỳ vọng Mỹ sẽ tung thêm gói kích thích kinh tế. Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế bởi số ca nhiễm virus corona đang tăng gây lo ngại cản trở xu hướng tiêu thụ xăng dầu.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 35 US cent lên 40,6 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn tăng 51 US cent lên 42,43 USD/thùng.
Chứng khoán Phố Wall tăng điểm sau khi khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ, Nancy Pelosi, cho biết các cuộc đàm phán tiếp tục về gói cứu trợ Covid-19 có thể đi đến một thỏa thuận. USD yếu hơn cũng hỗ trợ giá dầu.
Tuy nhiên, khủng hoảng Covid-19 tiếp tục phủ bóng lên thị trường dầu. Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết thị trường dầu mỏ toàn cầu đã ổn định trong vài tháng qua nhưng cảnh báo về nguy cơ của làn sóng nhiễm Covid-19 thứ hai.
Về nguồn cung, bất chấp những nỗ lực của Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và các đồng minh để hạn chế sản lượng, xuất khẩu dầu thô tăng thêm từ các nhà sản xuất OPEC Iran và Libya. Tổng thư ký của OPEC cho biết tồn kho dầu thương mại tại các nước OECD sẽ cao hơn một chút so với mức trung bình 5 năm trong quý 1/2021, sau đó giảm trong những tháng còn lại của năm này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do USD yếu đi. Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1% lên 1.878,33 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 16 USD, hay 0,86%.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2020 tăng 51,1 US cent, hay 2,21%, lên 23,604 USD/ounce; giá bạch kim giao tháng 1/2021 tăng 42,2 USD, hay 4,97%, lên 891,4 USD/ounce; palađi tăng 1,7% lên 2.253 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhìn chung tăng do USD yếu đi và dự đoán nhu cầu mạnh từ Trung Quốc, nước tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới, mặc dù những nghi ngờ về triển vọng trong dài hạn và dự trữ tại sàn giao dịch kim loại London tăng đã hạn chế đà tăng.
Kết thúc phiên, giá đồng trên sàn giao dịch LME tăng 0,5% lên 6.578 USD/tấn. Giá kim loại này đã giảm hơn 4% kể từ 6.877,5 USD, cao nhất 27 tháng đã đạt được trong tuần trước.
Dự trữ đồng trên sàn LME tăng 29.500 tấn lên 103.125 tấn. Điều này làm giảm lo ngại về thị trường LME bị hạn chế.
Sự gia tăng này do các kích thích tài chính của Trung Quốc trong những tháng gần đây, đã thúc đẩy hoạt động kinh tế và nhu cầu kim loại công nghiệp sau khi nước này bị phong tỏa bởi virus corona. Nhu cầu của Trung Quốc vẫn đang tăng nhưng tốc độ không như trước, sẽ có sự kháng cự với giá cao hơn.
Các cuộc khảo sát trong tháng 9 về quản lý sức mua trong lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc, đặc biệt các đơn hàng xuất khẩu mới, công bố vào ngày 30/9 sẽ được xem xét kỹ lưỡng đối với tăng trưởng nhu cầu kim loại công nghiệp.
Giá sắt thép cũng hồi phục sau khi giảm mạnh trong tuần trước, nhưng khối lượng giao dịch là yếu trước đợt nghỉ lễ Quốc khánh Trung Quốc từ 1/10 tới 8/10.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Đại Liên đóng cửa tăng 0,9% lên 770 CNY (112,86 USD)/tấn. Trên sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 10 tăng 0,8% lên 114,1 USD/tấn. Thép thanh dùng trong xây dựng trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,1%, trong khi thép cuộn cán nóng ổn định. Thép không gỉ tăng 0,5%.
Giá quặng sắt trên cả sàn Đại Liên và Singapore đều tăng trong quý 3 bất chấp giảm gần đây sau khi đạt mức cao nhất kể từ năm 2014 trong đầu tháng này, với sự hỗ trợ không thay đổi sau khi Australia đưa ra triển vọng giá ít ảm đạm hơn.
Trong một báo cáo hàng quý, Bộ Công nghiệp Australia dự báo giá quanh mức 100 USD/tấn trong quý 4 trước khi giảm xuống khoảng 80 USD vào cuối năm 2021 và 75 USD/tấn vào cuối năm 2022.
Theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome, giá quặng sắt hàm lượng 62% giao ngay xuất sang Trung Quốc ở mức 117,5 USD/tấn trong ngày 25/9, giảm 8,5% so với mức đỉnh ngày 8/9.
Giá đã giảm trở lại trong bối cảnh tồn kho ở các cảng của Trung Quốc đang tăng, đạt mức cao nhất trong 6 tháng tại 120,3 triệu tấn trong tuần trước, theo SteelHome.
Trên thị trường nông sản, giá đồng loạt đi lên. Trên sàn Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 6-1/4 US cent xuống 9,96-1/4 USD/bushel; ngô CBOT kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 1-1/2 US cent lên 3,66-3/4 USD/bushel. Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết việc bán 110.800 tấn ngô sang Nhật Bản và 207.140 tấn sang nơi khác không rõ, tất cả giao trong năm 2020/21 bắt đầu từ ngày 1/9.
Bộ Nông nghiệp Mỹ xác nhận việc đã bán 218.300 tấn đậu tương tới các địa chỉ không xác định giao hàng trong năm 2020/21 bắt đầu từ ngày 1/9.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 – đáo hạn trong tuần này - lúc đóng cửa giảm 0,41 US cent hay 3,2% xuống 12,59 US cent/lb, đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 9,5 USD hay 2,5% xuống 367 USD/tấn.
Đồng real Brazil có xu hướng giảm giá so với USD, thúc đẩy các ngân hàng trung ương địa phương bán USD trên thị trường giao ngay lần đầu tiên trong hơn một tháng.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 4,1 US cent hay 3,6% xuống 1,0955 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 11 giảm 31 USD hay 2,3% xuống 1.327 USD/tấn.
Các nhà môi giới dự đoán giá cà phê có thể phục hồi trong tuần này do mưa tại các khu vực trồng cà phê tại Brazil thấp hơn mong đợi cùng với đồng nội tệ của nước này mất giá.
Các đại lý cho biết dự trữ của các kho Brazil ở mức cao sau một vụ thu hoạch lớn trong năm nay cũng là một yếu tố giảm giá.
Giá cao su trên thị tường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong vòng 3 tuần sau những số liệu cho thấy kinh tế Trung Quốc tiếp tục phục hồi từ khủng hoảng Covid-19.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 2,2 JPY, hay 1,2% lên 189 JPY/kg, đóng cửa cao nhất kể từ ngày 2/9.
Lợi nhuận của các công ty công nghiệp tại Trung Quốc, nước tiêu thụ cao su lớn nhất và là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, tăng tháng thứ 4 liên tiếp trong tháng 8, trong bối cảnh giá hàng hóa và sản xuất thiết bị phục hồi.
Giá hàng hóa thế giới sáng 29/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,44

-0,16

-0,39%

Dầu Brent

USD/thùng

42,26

-0,17

-0,40%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.620,00

+560,00

+2,00%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,10

-0,04

-1,78%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

124,80

+0,14

+0,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

114,36

+0,41

+0,36%

Dầu khí

USD/tấn

331,75

+1,50

+0,45%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.020,00

+810,00

+1,92%

Vàng New York

USD/ounce

1.886,90

+4,60

+0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.396,00

+96,00

+1,52%

Bạc New York

USD/ounce

23,75

+0,15

+0,62%

Bạc TOCOM

JPY/g

80,30

+3,50

+4,56%

Bạch kim

USD/ounce

885,94

+3,41

+0,39%

Palađi

USD/ounce

2.273,90

+11,78

+0,52%

Đồng New York

US cent/lb

299,45

+0,45

+0,15%

Đồng LME

USD/tấn

6.572,00

+27,00

+0,41%

Nhôm LME

USD/tấn

1.775,00

+26,50

+1,52%

Kẽm LME

USD/tấn

2.432,00

+63,00

+2,66%

Thiếc LME

USD/tấn

17.344,00

+159,00

+0,93%

Ngô

US cent/bushel

366,75

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

548,50

-1,75

-0,32%

Lúa mạch

US cent/bushel

276,25

+1,25

+0,45%

Gạo thô

USD/cwt

12,42

-0,04

-0,32%

Đậu tương

US cent/bushel

995,25

-1,00

-0,10%

Khô đậu tương

USD/tấn

333,90

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,06

-0,05

-0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

514,30

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.587,00

+19,00

+0,74%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

109,55

-4,10

-3,61%

Đường thô

US cent/lb

13,05

-0,46

-3,40%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

107,10

+1,35

+1,28%

Bông

US cent/lb

65,41

-0,28

-0,43%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

578,60

-29,00

-4,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

139,70

+0,70

+0,50%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

+0,02

+1,16%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg