Năng lượng: Giá dầu giảm, cuối tuần thấp nhất gần hai tháng
Tuần này, giá dầu giảm trong 4/5 phiên, kết thúc một tuần giảm khoảng 7%.
Trong phiên giao dịch cuối cùng, giá hai loại dầu chủ chốt là dầu Brent và dầu ngọt nhẹ (WTI) đều giảm sâu. Đáng chú ý, giá dầu WTI rớt mốc 40 USD/thùng lần đầu tiên kể từ đầu tháng 7/2020, góp phần nới rộng đà lao dốc trong tuần qua do những lo ngại về triển vọng nhu cầu, đà sụt giảm trên thị trường chứng khoán, và đồng USD mạnh lên đã khiến giá dầu lùi xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7/2020.
Cụ thể, dầu WTI giao tháng 10/2020 hạ 1,6 USD (3,9%), xuống 39,77 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 11/2020 giảm 1,41 USD (3,2%), xuống 42,66 USD/thùng. Cả hai loại dầu này đều chốt ở mức thấp nhất kể từ ngày 9/7.
Với mức giảm 7% trong tuần qua, giá dầu WTI đã kết thúc chuỗi bốn tuần đi lên liên tiếp, trong khi giá dầu Brent cũng giảm 6,9% trong cả tuần.
Giám đốc nghiên cứu hàng hóa tại ClipperData, Matt Smith, nhận định rằng giá dầu đang chịu sức ép bởi đà tăng của đồng USD, và bị tác động tiêu cực bởi tâm lý né tránh rủi ro và bán tháo trên thị trường. Ông Smith nêu rõ nhu cầu dầu thô tại Mỹ đang bị kìm hãm, khi nhu cầu các sản phẩm xăng dầu giảm và dự trữ tăng, đặc biệt liên quan đến các sản phẩm chưng cất.
Dữ liệu từ công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes vào ngày 4/9 cho thấy số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ tăng 1 giàn, lên 181 giàn trong tuần này, sau khi mất 3 giàn trong tuần trước.
Kim loại quý: Giá vàng giảm, cuối tuần thấp nhất kể từ cuối tháng Tám
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giao tháng 12/2020 giảm 3,5 USD (tương đương 0,2%) xuống 1.934,30 USD/ounce, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 27/8/2020. Tính chung cả tuần qua, giá vàng đã giảm 2,1%. Cùng ngày, giá vàng giao ngay gần như đi ngang, đứng ở mức 1.930,11 USD/ounce.
Cũng trong phiên này, trên sàn Comex, giá bạc giao tháng 12/2020 mất 0,6% xuống 26,712 USD/ounce và giảm 3,3% trong tuần qua; bạch kim giao tháng 10/2020 tăng 1%, lên 898,20 USD/ounce; palađi giao tháng 12/2020 tiến 0,9% lên 2.343,20 USD/ounce.
Giá vàng gần đây suy giảm khi nhà đầu tư thoát khỏi kỳ vọng tăng vào cổ phiếu và định vị lại danh mục đầu tư tổng thể của họ trong bối cảnh dự báo thị trường tài chính đang trở nên hỗn loạn hơn. Chứng khoán Mỹ đã xóa sạch đà tăng trong tuần qua; điều này có thể khiến một số nhà đầu tư đổ xô bù lỗ bằng cách bán các tài sản khác, bao gồm vàng.
Giá vàng vẫn quay đầu đi xuống trong ba phiên giao dịch cuối tuần, khi đồng USD lên giá và sự phục hồi mạnh mẽ trong lĩnh vực chế tạo của Mỹ đã làm dấy lên hy vọng về triển vọng phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Các số liệu mới nhất cho thấy số đơn đặt hàng mới đối với hàng hóa do Mỹ sản xuất đã tăng hơn dự kiến trong tháng Bảy, trong khi hoạt động chế tạo của nước này đã tăng tốc lên mức cao nhất trong gần hai năm trong tháng Tám. Những yếu tố này giúp làm tăng sự lạc quan của thị trường về triển vọng phục hồi ổn định của nền kinh tế lớn nhất thế giới. Bộ Lao động Mỹ cho hay nền kinh tế Mỹ đã tạo ra 1,4 triệu việc làm trong tháng 8/2020 và tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ giảm mạnh từ 10,2% trong tháng Bảy xuống còn 8,4%, đánh dấu bốn tháng giảm liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và quặng sắt tăng trong tuần
Phiên cuối tuần, giá đồng tăng do kỳ vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh, được củng cố bởi tồn trữ đồng tại London chạm mức thấp lịch sử. Tính chung cả tuần, giá cũng đi lên.
Cụ thể, giá đồng trên sàn London tăng 2,2% lên 6.711 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 2 năm (6.830 USD/tấn) trong phiên ngày 31/8/2020. Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm 2.725 tấn xuống 82.450 tấn, thấp nhất kể từ tháng 12/2005. Trong khi đó, tồn trữ đồng tại Thượng Hải tăng 6.787 tấn lên 176.873 tấn trong tuần tính đến ngày 4/9/2020.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm trong phiên cuối tuần do tồn trữ quặng sắt tại các cảng của nước này tăng, song triển vọng nhu cầu quặng sắt và sản phẩm thép tăng mạnh đã hạn chế đà suy giảm.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 1,5% xuống 850 CNY (124,3 USD)/tấn, sau 6 phiên tăng liên tiếp. Tuy nhiên tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng 3,2%; quặng sắt trên sàn Singapore giảm 1% xuống 123 USD/tấn, sau chuỗi tăng 5 phiên liên tiếp. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,1%, giá thép cuộn cán nóng giảm 0,9% và giá thép không gỉ giảm 2,9%.
Khối lượng quặng sắt nhập khẩu có tại 45 cảng của Trung Quốc trong tuần tính đến ngày 3/9/2020 tăng tuần thứ 2 liên tiếp, tăng 0,6% lên 113,7 triệu tấn, công ty tư vấn Mysteel cho biết.
Dự báo nhu cầu thép Trung Quốc sẽ tăng từ tháng 9/2020 do thời tiết mát hơn và việc sửa chữa sau trận lũ lụt gần đây đã thúc đẩy hoạt động xây dựng, trong khi nhu cầu toàn cầu được cải thiện có thể thúc đẩy xuất khẩu hơn nữa, Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc cho biết.
Nông sản: Giá đậu tương vẫn cao nhất hơn 2 năm trong phiên cuối tuần
Trong phiên 4/9, giá các loại nông sản giao kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) diễn biến trái chiều; giá ngô và đậu tương đều tăng, trong khi giá lúa mỳ giảm.
Cụ thể, giá ngô giao tháng 12/2020 tăng 4,25 US cent (1,2%) lên 3,58 USD/bushel; giá đậu tương giao tháng 11/2020 tăng 2 US cent (0,21%) lên 9,68 USD/bushel. Trái lại, giá lúa mỳ giao tháng 12/2020 chốt phiên với mức giảm 3 US cent (0,54%) xuống 5,5025 USD/bushel
Công ty tư vấn AgResource, trụ sở tại Chicago, cho hay giá ngô và đậu tương tăng là nhờ nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc gia tăng.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thông báo khoảng 318.000 tấn đậu tương Mỹ đã được xuất sang Trung Quốc. Cơ quan này ước tính Trung Quốc đã đặt mua gần 20,5 triệu tấn đậu tương Mỹ và con số này có thể tăng lên 26-28 triệu tấn trong niên vụ 2020/21.
Trung Quốc cũng đã đặt mua gần 1,2 triệu tấn ngô Mỹ trong tuần này. Trong khi đó, mặt hàng lúa mỳ của Mỹ không nhận được sự quan tâm từ khách hàng Trung Quốc. Trung Quốc đã đặt 250.000 tấn lúa mì HRW/HRS của Mỹ trong tuần trước.
Giá cà phê có xu hướng cao hơn trong ba tuần qua do nguồn cung giảm dần. Lượng cà phê Arabica do ICE theo dõi đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 năm rưỡi qua là 1,192 triệu bao (1 bao = 60 kg) trong ngày 3/9. Ngoài ra, lượng cà phê Robusta do ICE giám sát đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 tháng là 10.908 lot (1 lot=10 tấn) vào ngày 28/8.
Trong phiên cuối tuần, giá cà phê đã tăng lên mức cao của 8 tháng rưỡi trong phiên ngày 4/9 do lượng hàng tại các kho dự trữ giảm và sản lượng cà phê tại Colombia, nhà sản xuất hạt cà phê Arabica lớn thứ hai, ở mức thấp. Kết thúc phiên này, trên sàn ICE Europe-London, giá cà phê Robusta giao tháng 11/2020 tăng 8 USD lên 1.444 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 1/2021 cũng tăng 8 USD, lên 1.454 USD/tấn. Trong khi đó, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York giao tháng 12/2020 tăng 2,8 US cent, lên 134 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 3/2021 tăng 2,9 US cent lên 134,55 US cent/lb.
Thời tiết khô hạn gần đây tại Minas Gerais, khu vực trồng cà phê lớn nhất Brazil, có thể khiến sản lượng cà phê thấp hơn và làm tăng giá cà phê. Giá cà phê cũng được hỗ trợ bởi số liệu từ ICO đưa ra ngày 1/9 cho thấy xuất khẩu cà phê toàn cầu trong niên vụ 2019/20 (trong thời gian từ tháng 10/2019-7/2020) giảm 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống 106,59 triệu bao.
Triển vọng sản lượng cà phê thấp hơn tại Việt Nam, nhà sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới, cũng đang hỗ trợ giá cà phê Robusta.
Giá đường chạm mức thấp nhất 1 tháng trong phiên cuối tuần để kết thúc một tuần giảm 5,7% do nhu cầu suy yếu và kỳ vọng sản lượng đường tại nước sản xuất hàng đầu - Ấn Độ - có thể trở lại mức bình thường trong niên vụ tới.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE giảm 0,14 US cent tương đương 1,2% xuống 11,93 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1 tháng (11,86 US cent/lb) trong đầu phiên giao dịch; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 0,9 USD tương đương 0,3% lên 354,5 USD/tấn.
Tổ chức Đường Quốc tế (ISO) dự báo sản lượng đường Ấn Độ sẽ tăng lên 31,5 triệu tấn niên vụ 2020/21 từ mức 27,2 triệu tấn niên vụ 2019/20 và dự kiến nhu cầu toàn cầu hồi phục khiến thị trường thiếu hụt ít.
Giá cao su tại Osaka giảm gần 3% trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần cũng giảm do các nhà phân tích cho thấy rằng nền kinh tế của nước này giảm hơn so với dự kiến trước đó.
Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Osaka giảm 4,8 JPY tương đương 2,6% xuống 180 JPY/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 3,2%. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 1/2021 giảm gần 1% xuống 12.580 CNY/tấn.
Nền kinh tế Nhật Bản có khả năng giảm mạnh hơn so với ước tính trước đó trong quý 2/2020, khi chi tiêu vốn cơ bản bị ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, điều này thách thức các nhà hoạch định chính sách đối mặt với việc ngăn chặn suy thoái sâu hơn.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá 28/8

Giá 4/9

4/9 so với 3/9

4/9 so với 3/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

43,09

39,77

-1,60

-3,87%

Dầu Brent

USD/thùng

46,06

42,66

-1,41

-3,20%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.510,00

28.800,00

-880,00

-2,96%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,64

2,59

+0,10

+4,06%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

131,55

117,72

-2,77

-2,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

121,62

115,15

-1,62

-1,39%

Dầu khí

USD/tấn

368,50

335,50

+1,00

+0,30%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.780,00

42.240,00

-500,00

-1,17%

Vàng New York

USD/ounce

1.981,20

1.934,30

-3,50

-0,18%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.692,00

6.608,00

-5,00

-0,08%

Bạc New York

USD/ounce

28,26

26,71

-0,16

-0,61%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,50

91,40

+1,10

+1,22%

Bạch kim

USD/ounce

940,49

904,05

+11,85

+1,33%

Palađi

USD/ounce

2.219,16

2.295,22

-11,75

-0,51%

Đồng New York

US cent/lb

303,75

306,20

+8,70

+2,92%

Đồng LME

USD/tấn

6.667,00

6.710,00

+146,50

+2,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.800,00

1.786,50

+6,50

+0,37%

Kẽm LME

USD/tấn

2.515,00

2.483,00

-31,00

-1,23%

Thiếc LME

USD/tấn

17.850,00

18.250,00

+25,00

+0,14%

Ngô

US cent/bushel

359,75

358,00

+4,25

+1,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

550,75

550,25

-3,00

-0,54%

Lúa mạch

US cent/bushel

269,75

270,00

-2,50

-0,92%

Gạo thô

USD/cwt

12,32

12,40

+0,06

+0,45%

Đậu tương

US cent/bushel

958,75

968,00

+2,00

+0,21%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,90

317,20

+4,40

+1,41%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,41

32,89

-0,40

-1,20%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

499,00

503,70

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.623,00

2.595,00

-39,00

-1,48%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

126,35

134,00

+2,80

+2,13%

Đường thô

US cent/lb

12,60

11,93

-0,14

-1,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117,95

119,90

+1,35

+1,14%

Bông

US cent/lb

65,08

64,99

+0,71

+1,10%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

766,50

641,50

-29,00

-4,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

140,50

139,00

-1,30

-0,93%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

1,31

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg