Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm sau khi các nhà sản xuất dầu mỏ hoãn cuộc họp chính thức để quyết định xem có điều chỉnh sản lượng vào tháng 1/2021 hay không.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 46 US cent (1%) xuống 47,42 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 79 US cent (1,7%) xuống 44,55 USD/thùng.
Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho hay dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 4,1 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược với dự báo giảm 2,4 triệu thùng của các nhà phân tích trước đó.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), Nga và các nước sản xuất dầu đồng minh khác, còn gọi là OPEC+, đã dời các cuộc đàm phán về chính sách sản lượng dầu cho năm 2021 từ ngày 1/12 sang ngày 3/12. Dự kiến, OPEC+ kể từ tháng 1/2021 sẽ giảm 2 triệu thùng/ngày trong mức cắt giảm sản lượng dầu 7,7 triệu thùng/ngày hiện tại.
Tuy nhiên, nguồn cung bổ sung sẽ làm suy yếu đà phục hồi gần đây của giá dầu.
Jim Ritterbusch, Chủ tịch Ritterbusch and Associates, nhận định những trục trặc trong các cuộc thảo luận đã buộc OPEC+ phải trì hoãn các cuộc đàm phán cho đến ngày 3/12 và kìm hãm đà tăng của giá dầu.
Trong tháng 11/2020, giá dầu thô đã tăng khoảng 27%, nhờ những tiến triển trong sản xuất vắc-xin ngừa dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19. Dù vậy, một số quốc gia bày tỏ lo ngại giá mặt hàng này sẽ giảm do nhu cầu vẫn yếu và các ca mắc COVID-19 tăng đột biến.
Một cuộc khảo sát do hãng Reuters tiến hành đối với 40 nhà kinh tế và nhà phân tích dự báo giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 49,35 USD/thùng trong năm tới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phục hồi từ mức thấp của 5 tháng trong phiên trước đó, trong bối cảnh đồng USD giảm do những kỳ vọng về gói kích thích kinh tế từ Mỹ đã làm gia tăng sức hấp dẫn của vàng như là "nơi trú ẩn an toàn" trong thời kỳ lạm phát.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 2,1% lên 1.814,99 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 2,1% lên 1.818,90 USD/ounce. Phiên liền trước, giá vàng đã giảm xuống mức 1.764,29 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 2/7, trong bối cảnh các nhà đầu tư đổ xô vào những tài sản rủi ro hơn.
Đồng USD giảm giá do kỳ vọng về gói kích thích kinh tế của Mỹ, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các đồng tiền khác.
Trong phát biểu đưa ra ngày 30/11, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powel đã nhấn mạnh những thách thức trong sản xuất và phân phối hàng loạt vắc-xin ngừa dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 trước khi những tác động về kinh tế nhờ vắc-xin ngừa COVID-19 trở nên rõ ràng.
Giá vàng đã tăng giá hơn 19% trong năm nay, nhờ vào các biện pháp kích thích chưa từng có để hỗ trợ các nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của TD Securities, cho biết hiện giá vàng đã ở mức đáy và thị trường có thể chứng kiến giá kim loại quý này tăng lên tới 2.000 USD/ounce trong năm 2021.
Trong khi đó, giá bạc giao ngay đã tăng 6% lên mức 23,95 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất một tuần trước đó trong cùng phiên. Fawad Razaqzada, nhà phân tích thị trường của ThinkMarkets, cho biết nhu cầu từ các ngành công nghiệp tăng sẽ giúp giá bạc tăng nhanh hơn giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giao ngay tăng 3,6% lên 999,96 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 1,7% lên 2.412,93 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng đạt mức cao nhất kể từ năm 2013 do số liệu cho thấy hoạt động sản xuất đang mở rộng nhanh chóng ở Châu Âu, Mỹ và Châu Á trong tháng 11 và vắc xin phòng COVID-19khiến các nhà đầu tư ngày càng lạc quan về triển vọng kinh tế. Hoạt động sản xuất tại Trung Quốc, nước sử dụng kim loại nhiều nhất đã tăng trưởng ở tốc độ nhanh nhất trong một thập kỷ.
Giá đồng trên sàn giao dịch London (LME) đóng cửa tăng 1,3% lên 7.677 USD/tấn, sau khi có thời điểm chạm 7.743 USD/tấn.
Các thị trường chứng khoán toàn cầu tăng và USD suy yếu. Giá nhôm tại LME trong phiên có lúc đạt mức cao nhất 2 năm là 2.069 USD/tấn trước khi giảm xuống 2.061,5 USD/tấn, tăng 0,8% so với phiên trước.
Giá đồng đã phục hồi từ mức thấp 4.371 USD hồi tháng 3 và tăng vọt khoảng 1.000 USD chỉ trong 4 tuần qua do chính phủ bơm tiền vào các thị trường và các nhà đầu cơ đã mua vào.
Các nhà phân tích của Goldman Sachs cho biết nguồn cung thắt chặt nghĩa là đồng có thể tăng lên 9.500 USD trong vòng một năm và lên mức cao kỷ lục trên 10.000 USD trong năm 2022.
Giá quặng sắt phục hồi sau khi giảm trong đầu phiên giao dịch, cả hợp đồng quặng sắt Đại Liên và Singapore khôi phục đà tăng do nhu cầu mạnh từ Trung Quốc.
Quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa phiên giao dịch tăng 0,3% lên 908,5 CNY (138,38 USD)/tấn. Hợp đồng cùng kỳ hạn tại Singapore tăng 0,8% lên 130,4 USD/tấn. Giá thép thanh dùng trong xây dựng tại Thượng Hải giảm 0,7% trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,4%. Thép không gỉ giảm 0,6%.
Tồn kho thép của Trung Quốc giảm đáng kể từ mức cao kỷ lục theo mùa 12,92 triệu tấn xuống chỉ cao hơn một chút mức trung bình theo mùa trong 5 năm tại 10,46 triệu trong tuần trước.
Tồn kho quặng sắt tại cảng của Trung Quốc giảm trong hai tuần liên tiếp, sau một đợt tích trữ kéo dài 5 tháng.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Chicago đạt mức thấp nhất trong 2 tháng bởi xếp hạng vụ lúa mì mùa đông của Mỹ cải thiện, cạnh tranh xuất khẩu mạnh và ước tính thu hoạch của Úc tăng.
Ngô và đậu tương cũng giảm do các nhà đầu tư tập trung vào dự báo mưa ở khu vực Nam Mỹ.
Lúa mì kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) đóng cửa giảm 7-3/4 US cent xuống 5,77-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống 5,74 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 2/10.
Ngô cùng kỳ hạn giảm 5-1/4 US cent xuống 4,20-3/4 USD/bushel và đậu tương kỳ hạn tháng 1/2021 giảm 6-1/2 US cent xuống 11,62 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 lúc đóng cửa vững ở 14,51 US cent/lb sau khi giảm xuống 14,4 US cent, thấp nhất kể từ ngày 6/11; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2021 tại 398,8 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường dường như mất đà tăng sau khi lên mức cao nhất 8,5 tháng vào giữa tháng 11 và các quỹ hiện nay đang giảm vị thế mua vào.
Thị trường này tiếp tục đợi thông báo về chính sách xuất khẩu cho niên vụ hiện nay của Ấn Độ.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2021 chốt phiên giảm 4,85 US cent hay 3,95% xuống 1,1845 USD/lb với mưa gần đây đã hỗ trợ mùa màng tại miền nam Brazil. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 17 USD hay 1,21% xuống 1.388 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm từ mức cao nhất trong 4 tuần đã đạt được trong phiên liền trước, bởi giá tại Thượng Hải suy yếu và do các nhà đầu tư chốt lời từ đợt tăng giá gần đây.
Hợp đồng cao su giao tháng 5/2021 trên sàn giao dịch Osaklúc đóng cửa giảm 1 JPY hay 0,4% xuống 249,1 JPY (2,4 USD)/kg; cao su tại Thượng Hải giao tháng 5/2021 giảm 100 CNY xuống 15.385 CNY (2.341 USD)/tấn.
Bờ Biển Ngà đã xuất khẩu 972.222 tấn cao su tự nhiên trong 10 tháng đầu năm nay, tăng gần 35% so với cùng kỳ năm trước.
Giá hàng hóa thế giới sáng 2/12

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

44,25

-0,30

-0,67%

Dầu Brent

USD/thùng

47,14

-0,28

-0,59%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.280,00

-420,00

-1,37%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,87

-0,01

-0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

121,05

-0,99

-0,81%

Dầu đốt

US cent/gallon

133,99

-0,74

-0,55%

Dầu khí

USD/tấn

382,50

-3,75

-0,97%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

45.590,00

-390,00

-0,85%

Vàng New York

USD/ounce

1.818,10

-0,80

-0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.093,00

+92,00

+1,53%

Bạc New York

USD/ounce

24,05

-0,04

-0,17%

Bạc TOCOM

JPY/g

80,20

+3,80

+4,97%

Bạch kim

USD/ounce

992,68

-10,62

-1,06%

Palađi

USD/ounce

2.397,28

-20,25

-0,84%

Đồng New York

US cent/lb

348,10

-0,40

-0,11%

Đồng LME

USD/tấn

7.694,50

+114,50

+1,51%

Nhôm LME

USD/tấn

2.064,50

+19,50

+0,95%

Kẽm LME

USD/tấn

2.770,00

-20,50

-0,73%

Thiếc LME

USD/tấn

18.895,00

+274,00

+1,47%

Ngô

US cent/bushel

418,75

-2,00

-0,48%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

576,25

-1,00

-0,17%

Lúa mạch

US cent/bushel

291,50

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,53

-0,02

-0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

1.157,25

-4,75

-0,41%

Khô đậu tương

USD/tấn

388,30

-1,90

-0,49%

Dầu đậu tương

US cent/lb

37,05

+0,04

+0,11%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

581,00

-2,80

-0,48%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.691,00

-48,00

-1,75%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,45

-4,85

-3,93%

Đường thô

US cent/lb

14,51

0,00

0,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

126,00

-2,75

-2,14%

Bông

US cent/lb

72,19

+0,04

+0,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

635,20

-1,60

-0,25%

Cao su TOCOM

JPY/kg

165,00

+0,30

+0,18%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg