Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm nhẹ do giới giao dịch ngày càng quan ngại về triển vọng nhu cầu nhiên liệu khi dịch COVID-19 vẫn diễn biến khó lường. Tuy nhiên, giá vẫn quanh mức cao nhất 5 tháng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc giảm 8 US cent xuống 45,09 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 24 US cent xuống 41,95 USD/thùng, kết thúc chuỗi tăng bốn phiên liên tiếp.
Đầu phiên, thông tin về việc Iraq sẽ cắt giảm thêm sản lượng đã có tác động tích cực lên cả hai loại dầu này. Iraq cho biết nước này sẽ nâng mức cắt giảm sản lượng thêm khoảng 400.000 thùng dầu/ngày trong tháng 8/2020 để bù lại số sản lượng mà nước này đã sản xuất quá mức trong giai đoạn trước, theo thỏa thuận cắt giảm sản lượng giữa Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất liên minh, còn gọi là OPEC+.
Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 và tác động của nó đối với nhu cầu năng lượng vẫn là yếu tố chủ chốt chi phối giá dầu. Phil Flynn, nhà phân tích cấp cao của Price Futures Group, nhận xét thị trường vẫn lo ngại rằng đà suy giảm kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra tiếp tục gây sức ép lên giá dầu. Theo ông Flynn, thị trường đang ngóng chờ gói kích thích mới ở Mỹ, hiện vẫn đang được các quan chức Nhà Trắng và Quốc hội thảo luận nhằm giúp nền kinh tế lớn nhất thế giới vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.
Chuyên gia phân tích Eugen Weinberg tại Commerzbank nhận định trong ngắn hạn, nhu cầu yếu có nhiều khả năng gây tác động lớn hơn so với các yếu tố tâm.
JPMorgan mới đây đã hạ dự báo nhu cầu dầu trong nửa cuối năm 2020 thêm 1,5 triệu thùng dầu/ngày, song nâng mức dự báo giá dầu Brent trung bình cho cả năm nay từ 40 USD/thùng lên 42 USD/thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục chinh phục kỷ lục cao mới nhờ kỳ vọng về các biện pháp kích thích mới, giữa lúc sự gia tăng số ca nhiễm Covid-19 tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ.
Cuối phiên vừa qua, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 2.055,87 USD/ounce, sau khi có thời điểm vọt lên mức cao kỷ lục 2.069,21 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 1% lên 2.069,40 USD/ounce.
Jeffrey Christian, đối tác của CPM Group, nhận định có những tín hiệu trái chiều về đà phục hồi của nền kinh tế và vẫn còn một chặng đường rất dài trước khi quá trình phục hồi kinh tế đi đúng hướng.
Số liệu thống kê cho thấy, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ đã giảm trong tuần trước, song vào giữa tháng 7/2020 có tới 31,3 triệu người nhận trợ cấp thất nghiệp, giữa lúc số ca nhiễm Covid-19 mới tăng mạnh phủ "mây đen" lên triển vọng phục hồi của nền kinh tế Mỹ. Điều này cho thấy sự hồi phục của Mỹ còn rất mong manh.
Giá vàng đã tăng hơn 35% kể từ đầu năm tới nay, giữa bối cảnh kim loại quý này được coi là “nơi trú ẩn an toàn” trong thời kỳ bất ổn và chương trình bơm tiền của các ngân hàng trung ương làm xói mòn giá trị của các tài sản khác. Các chuyên gia cảnh báo các dấu hiệu đều cho thấy vàng đã được mua vào quá mức, và có khả năng sẽ điều chỉnh giá sâu bất cứ lúc nào.
Hiện thị trường đang chờ đợi những phản ứng về chính sách tiếp theo của Mỹ, khi các nhà lãnh đạo đảng Dân chủ và các quan chức Nhà Trắng tiếp tục các cuộc đàm phán về gói kích thích mới nhằm trợ giúp nền kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 4,6% lên 28,26 USD/ounce, sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất trong hơn 7 năm là 28,42 USD/ounce, nhờ sự gia tăng hoạt động đầu tư cũng như nhu cầu công nghiệp; giá bạch kim tăng 1,5% lên 981,53 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 1,6% lên 2.216,06 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong phiên vừa qua do các nhà đầu tư nghi ngờ liệu nhu cầu tăng có đủ mạnh để duy trì mức giá hiện nay hay không. Tháng 7 vừa qua, giá đồng đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 2 năm, 6.633 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp chỉ 4.371 USD/tấn hồi tháng 3.
Kể từ đầu tháng 8, giá đồng đi ngang. Phiên 6/8, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London có giá 6.482 USD/tấn, giảm 0,2% so với phiên trước đó.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Thị trường không biết sẽ đi về đâu khi các nước ngoài Trung Quốc đều có tăng trưởng âm”,
Virus Covid-19 đã không làm gián đoạn nguồn cung nhiều như lo ngại, và có nguy cơ thị trường sẽ dư thừa đồng từ nay đến cuối năm. Ông Baer cho rằng giá đồng ở mức hiện tại là hợp lý, và trong thời gian tới sẽ duy trì ở mức 6.250 USD/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao kỷ lục mới của năm 2020 trong bối cảnh giá quặng sắt tại Singapore cũng tăng phiên thứ 8 liên tiếp. Lý do bởi có thêm những dấu hiệu cho thấy nhu cầu thép ở Trung Quốc tiếp tục được cải thiện.
Kết thúc phiên giao dịch, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Singapore tăng 2,9% lên 910 CNY (131 USD)/tấn.
Về những kim loại khác, giá nhôm trên sàn London tăng 0,7% lên 1.779 USD/tấn, kẽm giảm 0,1% xuống 2.406 USD/tấn, nickel tăng 0,4% lên 14.480 USD/tấn, chì tăng 1,1% lên 1.954,5 USD/tấn và thiếc giảm 0,1% xuống 17.860 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường và cao su tăng trong khi cà phê giảm.
Đường thô trên sàn New York giá tăng lên mức cao nhất trong vòng 5 tháng do các quỹ đầu cơ tích cực mua nông sản vào khi đồng USD giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 2 năm so với rổ các đồng tiền chủ chốt.
Kết thúc phiên giao dịch, đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,4 US cent (3,2%) lên 12,94 US cent/lb, cao nhất trong vòng 5 tháng gần đây. Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng tăng 8,5 USD (2,3%) lên 377,7 USD/tấn.
Thị trường đường đang được hưởng lợi khi có dấu hiệu cho thấy nhu cầu tiêu thụ ở Ấn Độ - nước sử dụng nhiều đường nhất thế giới – đang trở lại mức trước khi xảy ra dịch Covid-19, trong khi sản lượng ở Thái Lan và Liên minh Châu Âu vẫn có nguy cơ bị thu hẹp lại.
Theo công ty nhà môi giới và tư vấn StoneX, cán cân cung ứng đường toàn cầu trong niên vụ 2020/21 dự báo sẽ thiếu hụt 1,3 triệu tấn, trái vói dự báo hồi tháng 6 là dư thừa 0,5 triệu tấn.
Czarnikow dự báo Thái Lan sẽ ép khoảng 65 triệu tấn mía trong vụ tới, ít hơn một nửa so với năm 2018/19 do nhiều nông dân đã chuyển từ trồng mía sang trồng sắn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 trên sàn New York giảm 4,55 cent, tương đương 3,7%, xuống 1,17 USD/lb, mất đi gần như toàn bộ mức tăng có được trong thời gian gần đây. Các nhà sản xuất đường, nhất là Brazil, tiếp tục bán mạnh mặt hàng này sau khi giá tăng gần đây, tranh thủ lúc đồng real không tăng giá so với USD (tuần này real là một trong số rất ít đồng tiền không tăng giá so với USD).
Cà phê robusta cũng giảm giá trong phiên vừa qua, theo đó hợp đồng kỳ hạn tháng 9 giảm 11 USD (0,8%) xuống 1.368 USD/tấn, mặc dù thị trường lo ngại nguồn cung robusta sẽ bị thắt chặt do dịch Covid-19 ở khu vực trồng cà phê chủ chốt của Việt Nam đang diễn biến phức tạp.
Giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tuần này tăng vì một số nơi ở Tây Nguyên bị phong tỏa nhằm hạn chế sự lây lan của Covid-19. Cà phê nhân xô hiện có giá bán 33.000 – 33.500 đồng (1,42 – 1,45 USD)/kg; so với 33.000 – 33.200 đồng cách đây một tuần. Cà phê robusta xuất khẩu (loại 2, 5% đen – vỡ) hợp đồng kỳ hạn tháng 11 có giá cộng 70 USD/tấn so với giá trên sàn London, trong khi hợp đồng kỳ hạn tháng 9 giá cộng 130 USD/tấn.
Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatran tại Lampung giá chào cao hơn 180hown190 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 8 trên sàn London, giảm so với +240 USD/tấn cách đây một tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản tiếp tục tăng trong phiên vừa qua, kết thúc ở mức cao nhất trong vòng 5 tháng do giá ở Thượng Hải tăng và những dấu hiệu về sự hồi phục của nền kinh tế Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Osaka tăng 2,5 JPY (1,5%) lên 172,8 JPY/kg, cao nhất kể từ 5/3. Cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 2,7% lên 12.450 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 7/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,04

+0,09

+0,21%

Dầu Brent

USD/thùng

45,09

-0,08

-0,18%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.070,00

-190,00

-0,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,16

-0,01

-0,37%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

123,22

+0,41

+0,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

125,21

+0,22

+0,18%

Dầu khí

USD/tấn

374,50

-13,50

-3,48%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

45.210,00

+190,00

+0,42%

Vàng New York

USD/ounce

2.084,70

+15,30

+0,74%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.006,00

+62,00

+0,89%

Bạc New York

USD/ounce

29,54

+1,14

+4,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

97,70

+4,30

+4,60%

Bạch kim

USD/ounce

1.001,98

+4,85

+0,49%

Palađi

USD/ounce

2.242,14

+11,49

+0,52%

Đồng New York

US cent/lb

291,50

+0,45

+0,15%

Đồng LME

USD/tấn

6.478,50

-16,00

-0,25%

Nhôm LME

USD/tấn

1.777,50

+10,50

+0,59%

Kẽm LME

USD/tấn

2.412,00

+3,00

+0,12%

Thiếc LME

USD/tấn

17.840,00

-45,00

-0,25%

Ngô

US cent/bushel

323,75

+0,50

+0,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

501,25

-9,50

-1,86%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,75

-1,75

-0,65%

Gạo thô

USD/cwt

11,48

-0,20

-1,71%

Đậu tương

US cent/bushel

878,00

-0,75

-0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

288,40

-1,80

-0,62%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,28

+0,15

+0,48%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

489,80

+1,40

+0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.494,00

+20,00

+0,81%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,95

-4,45

-3,61%

Đường thô

US cent/lb

12,94

+0,40

+3,19%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,20

+0,05

+0,04%

Bông

US cent/lb

64,85

+0,39

+0,61%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

641,60

+19,00

+3,05%

Cao su TOCOM

JPY/kg

175,20

+2,40

+1,39%

Ethanol CME

USD/gallon

1,16

+0,06

+4,98%

 

 

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg