Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều tăng nhẹ, với dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 45 US cent lên 65,46 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc cũng tăng 67 US cent lên 71,43 USD/thùng. Vào đầu phiên, giá dầu WTI dao động quanh ngưỡng trung bình 200 ngày qua là 65,18 USD/thùng. Đây là ngưỡng kỹ thuật quan trọng, bởi nếu lùi dưới mức này, giá dầu có xu hướng tiếp tục đi xuống.
Mặc dù đã thoát khỏi đà giảm sâu 2% của phiên trước đó, song triển vọng ảm đạm về nhu cầu tiêu thụ dầu thô vẫn kiềm chế đà tăng. Ngoài ra, giá còn chịu áp lực giảm do hoạt động bán tháo các mặt hàng kim loại như đồng. Diễn biến quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng như cuộc khủng hoảng tài chính tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng tác động tới các thị trường toàn cầu gồm cổ phiếu, trái phiếu và nguyên liệu thô.
Nhu cầu tiêu thụ dầu tại châu Á cũng cho thấy một số dấu hiệu chững lại do các cuộc tranh chấp thương mại và đồng USD mạnh. Ngân hàng Commerzbank nhận định, giữa lúc mùa du lịch Hè đang vào giai đoạn cuối, lượng tiêu thụ nhiên liệu có thể giảm dần từ hiện tại, sau khi đạt “đỉnh” vào thời gian trước đó.
Nhân tố duy nhất có thể hỗ trợ thị trường dầu mỏ trong thời gian tới chỉ có thể là lệnh cấm vận của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu dầu của Iran, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 11/2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng hồi phục từ mức thấp nhất 19 tháng, nhờ đồng USD giảm trước thông tin Trung Quốc và Mỹ sẽ nối lại đàm phán trong tháng này.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.177,80 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất kể từ tháng 1/2017 là 1.159,96 USD/ounce; vàng giao tháng 12/2018 giảm 1 USD, hay 0,1% xuống 1.184 USD/ounce.
Cuộc gặp sắp tới giữa phái đoàn của Trung Quốc và các đại diện của Mỹ làm dấy lên hy vọng rằng nỗ lực giải quyết những căng thẳng thương mại song phương vốn gây hoang mang cho các thị trường hàng hóa và tài chính trong vài tuần trở lại đây sẽ có tiến triển.
Tuy nhiên, ông Ole Hanson, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của Ngân hàng Saxo Bank, cho rằng tâm lý của giới đầu tư chưa thực sự lạc quan và một đồng USD mạnh cũng như lãi suất khá cao của Mỹ dường như vẫn là những “cơn gió ngược” lớn đối với giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,7% lên 14,67 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 2,6% và được giao dịch ở mức 782,98 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 10/2018 tăng 0,07 US cent tương đương 0,68% lên 10,3 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 40 US cent tương đương 0,13% lên 311,20 USD/tấn.
Cà phê giảm giá trong phiên vừa qua, với arabica giao tháng 12/2018 giảm 0,65 US cent tương đương 0,61% xuống 1,0535 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn tăng 4 USD tương đương 0,25% lên 1.596 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm mức thấp nhất kể từ tháng 5/2016. Lượng mua vẫn ít trong khi dự trữ của các nhà rang xay vẫn còn nhiều.
Các thị trường cà phê Châu Á trầm lắng trong tuần này do giá cà phê thế giới giảm, đồng real Brazil yếu theo xu hướng các thị trường mới nổi. Nông dân Việt Nam chào bán cà phê với giá khoảng 34.200-34.400 đồng(1,47 -1.48 USD)/kg, mức thấp nhất kể từ tháng 5/2016. Giá cà phê robusta giao tháng 11 giảm 28 USD, tương đương 1,73%, còn 1.592 USD/tấn sau khi chạm mức 1.584 USD, thấp nhất kể từ tháng 5/2016.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Thổ Nhĩ Kỳ gây rối loạn các thị trường tiền tệ mới nổi, bao gồm cả Brazil, nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Giá cà phê Arabica Mỹ tiếp tục giảm, chạm mức thấp nhất kể từ 2013.Thị trường giao dịch gần như đóng băng do tồn kho thấp khi Việt Nam đang ở cuối niên vụ 2017/2018 (kết thúc vào tháng 9).
Mức chênh lệch giá chào bán cà phê robusta đen 5% vỡ của Việt Nam so với giá hợp đồng kỳ hạn tháng 11 tại London là trừ lùi 70- 100 USD/tấn, so với mức 90- 100 USD/tấn trong tuần trước. Mức chênh lệch giá cà phê robusta loại 4, 80 hạt lỗi tại tỉnh Lampung(Indonesia) so với giá kỳ hạn giao tháng 11 tại London đã tăng lên 70 USD/tấn, so với mức 50 USD/tấn trong tuần trước.
Đậu tương Mỹ đã tăng cao nhất một tuần khi Mỹ, Trung có kế hoạch tổ chức đàm phán thương mại mới, dấy lên hy vọng đậu tương Mỹ được bán sang Trung Quốc sau khi bị đình trệ bởi tranh chấp thuế quan. Trung Quốc là nước nhập khẩu đậu tương hàng đầu thế giới và năm ngoái đã mua 12 tỷ USD đậu tương của Mỹ. Năm nay, Bắc Kinh áp đặt thuế phụ thêm đối với nhập khẩu đậu tương của Mỹ và chuyển sang mua hàng từ Brazil.
Đậu tương kỳ hạn giao sau tại Chicago chốt phiên đã tăng 3,2% lên 8,97 USD/bushel, mức giá cao nhất kể từ ngày 9/8. Đậu tương tăng giá đã kéo giá ngô và lúa mì tăng theo. Giá lúa mì tăng 1,9% lên 5,62 USD/bushel và ngô tăng 1,1% lên 3,99-3/4 USD/bushel.
Giá cao su kỳ hạn giao sau tại Tokyo chạm mức thấp nhất 22 tháng do giá kỳ hạn giảm tại Thượng Hải, xu hướng thị trường vẫn yếu trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung. Mặc dù Trung Quốc đã cử một phái đoàn đến Mỹ để giải quyết tranh chấp thương mại, các thị trường vẫn dễ bị tổn thương khi có dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế Trung Quốc và khủng hoảng tài chính Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giao tháng 1/2019 giảm 2,4 JPY xuống 168 JPY(1,52 USD)/kg sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 4/10/2016 là 164,6 JPY. Giá cao su kỳ hạn giao tháng 1/2019 tại Thượng Hải giảm 0,55 CNY, tương đương 4,1%, chốt phiên ở mức 11.890 CNY(1.722 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn giao tháng 9 tại sàn SICOM Singapore đạt133,80 UScent/kg, giảm 0,8 UScent sau khi chạm mức thấp gần hai tuần trước đó.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

65,46

+0,45

 

Dầu Brent

USD/thùng

71,43

+0,67

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

47.660,00

+200,00

+0,42%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,92

+0,01

+0,28%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

198,58

-0,16

-0,08%

Dầu đốt

US cent/gallon

209,71

+0,07

+0,03%

Dầu khí

USD/tấn

643,00

+1,25

+0,19%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

65.690,00

+50,00

+0,08%

Vàng New York

USD/ounce

1.184,30

+0,30

+0,03%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.186,00

+4,00

+0,10%

Bạc New York

USD/ounce

14,67

-0,04

-0,29%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,30

0,00

0,00%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

781,65

+1,89

+0,24%

Palladium giao ngay

USD/ounce

893,55

+6,72

+0,76%

Đồng New York

US cent/lb

262,40

+0,75

+0,29%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

5.938,00

+137,00

+2,36%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.048,00

+23,00

+1,14%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.392,00

+92,00

+4,00%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

18.615,00

+210,00

+1,14%

Ngô

US cent/bushel

379,00

-0,75

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

562,50

+0,50

+0,09%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,00

+1,50

+0,57%

Gạo thô

USD/cwt

10,46

+0,14

+1,31%

Đậu tương

US cent/bushel

894,50

-2,50

-0,28%

Khô đậu tương

USD/tấn

336,40

-0,60

-0,18%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,51

+0,03

+0,11%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

511,10

+0,70

+0,14%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.158,00

+18,00

+0,84%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

105,35

-0,65

-0,61%

Đường thô

US cent/lb

10,30

+0,07

+0,68%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

155,60

-1,10

-0,70%

Bông

US cent/lb

81,67

-0,13

-0,16%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

457,50

+15,00

+3,39%

Cao su TOCOM

JPY/kg

168,60

+0,60

+0,36%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

+0,01

+0,74%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg