Nhập khẩu ước tính đạt 9,17 triệu tấn trong tháng 5/2020, theo số liệu của Refinitiv, thấp nhất kể từ khi Refinitiv bắt đầu thu thập số liệu trong tháng 1/2015.
Trong khi con số này vẫn có thể điều chỉnh, rõ ràng rằng nhập khẩu của tháng 5/2020 sẽ không thể gần tới 14,64 triệu tấn trong tháng 4/2020, hay 21,2 triệu tấn trong tháng 5/2019.
Có một số nghi ngờ rằng yếu tố chính đang đóng góp cho sự sụt giảm nhập khẩu than là việc phong tỏa của phần lớn nền kinh tế Ấn Độ, nơi bắt đầu từ tháng 3/2020 và hiện nay chắc chắn gia hạn ở nhiều nơi tới cuối tháng 6/2020. Các trường hợp nhiễm virus corona chủng mới tại Ấn Độ đã gần 200.000 người và hơn 5.000 người chết.
Nền kinh tế Ấn Độ đã bị ảnh hưởng, với tăng trưởng quý 1/2020 giảm xuống 3,1%, yếu nhất 8 năm trong bối cảnh dự đoán quý 2/2020 có thể giảm mạnh 20%.
Sự sụt giảm trong thăng trưởng kinh tế đã hạn chế nhu cầu điện, giảm ước tính 25% trong đợt phong tỏa.
Theo một phân tích số liệu của chính phủ, sự sụt giảm trong nhu cầu được thể hiện rõ nhất trong nhà máy điện đốt than, giảm 32,3% trong tháng 4/2020, trong khi điện năng lượng mặt trời giảm 16,9%. Trong những hoàn cảnh này không ngạc nhiên rằng nhập khẩu than đã chịu thiệt hại.
Nhập khẩu của Ấn Độ từ nhà cung cấp hàng đầu Indonesia, thường xuất khẩu than năng lượng thấp sử dụng trong phát điện, giảm xuống 3,6 triệu tấn trong tháng 5/2020, giảm từ 5,24 triệu tấn trong tháng 4/2020 và 8,34 triệu tấn trong tháng 5/2019, theo số liệu của Refinitiv.
Tuy nhiên, nhập khẩu từ Australia, nơi các nguồn cung cấp chính than năng lượng cao cho các nhà máy sản xuất thép tại Ấn Độ, đã đạt 2,42 triệu tấn trong tháng 5/2020, giảm từ 2,78 triệu trong tháng 4/2020, mặc dù giảm mạnh từ 4,38 triệu tấn trong tháng 5/2019.
Nhập khẩu từ Nam Phi hầu như sụt giảm trong tháng 5/2020, giảm xuống chỉ 695.000 tấn từ 2,44 triệu tấn trong tháng 4/2020 và 5,02 triệu tấn trong tháng 5/2019. Trong khi than của Nam Phi được sử dụng trong nhà máy phát điện, cũng được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp như sản xuất xi măng và gốm sứ, và sự sụt giảm trong nhu cầu phù hợp với tổn thất trong hoạt động kinh tế trong giai đoạn phong tỏa của Ấn Độ.
Khi Ấn Độ bắt đầu mở cửa lại nền kinh tế, sẽ là hợp lý khi dự đoán nhu cầu xăng sẽ phục hồi một lần nữa, nhưng cũng có thể nhập khẩu của Ấn Độ chuyển sang thấp hơn theo cấu trúc.
Không có gì bí mật rằng chính phủ muốn thấy nhập khẩu giảm để tiết kiệm ngoại tệ cũng như thúc đẩy ngành khai thác trong nước.
Động thái mới nhất trong chiều hướng đó cho thấy Bộ Môi trường Ấn Độ đảo ngược quyết định năm 2014 đặt hạn chế về khối lượng tro than tại một số nhà máy.
Điều này nghĩa là than trong nước chủ yếu tro ở mức độ cao, phải rửa sạch để giảm hàm lượng tro, hay nhập khẩu tham với mức độ tro thấp như từ Indonesia, đã được sử dụng thay thế.
Bằng cách cho phép thêm các nhà máy đốt than sử dụng than hàm lượng tro cao, Ấn Độ sẽ không thể tăng nhu cầu than trong nước trong khi giảm nhiên liệu nhập khẩu.
Yếu tố khác để xem xét là sự sẵn có ngày càng tăng của nhiên liệu tái tạo như năng lượng mặt trời ở giá thấp so với điện tạo ra từ than.
Điều này nghĩa là đầu tư có thể chảy sang năng lượng tái tạo với tốc độ nhanh hơn so với than, và không chắc rằng các nhà máy điện đốt than mới dựa trên sử dụng nhiên liệu nhập khẩu sẽ có hiệu quả kinh tế.
Than nhập khẩu bằng đường biển sang Ấn Độ do đó tiếp tục khó khăn khi có thể thấy giá giảm với than Indonesia hàm lượng năng lượng 4.200 Kcalories/kg.
Chỉ số than hàng tuần giảm 34% từ mức đỉnh trong năm nay tại 36,67 USD/tấn trong ngày 14/2 xuống mức thấp nhất 24,15 USD/tấn vào ngày 8/5. Kể từ đó giá than đã phục hồi phần nào đó lên 29,37 USD trong tuần kết thúc vào ngày 29/5.

Nguồn: VITIC/Reuters