Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng nhẹ. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 17 US cent (0,4%) lên 41,94 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 38 US cent (1%) lên 40,31 USD/thùng.
Giá dầu được hỗ trợ bởi số liệu từ Chính phủ Mỹ cho thấy, tồn trữ dầu thô, khí đốt và các sản phẩm chưng cất của nước này đều giảm trong tuần trước.
Tuy nhiên, nhu cầu nhiên liệu của Mỹ vẫn ảm đạm do dịch COVID-19 làm hạn chế hoạt động đi lại. Số liệu của chính phủ cho thấy nhu cầu xăng trung bình trong 4 tuần đã giảm 9% trong tuần trước, so với mức của cùng kỳ năm trước.
Đà tăng của giá dầu cũng bị hạn chế bởi số liệu cho thấy lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới của Mỹ đã bất ngờ tăng trong tuần trước, qua đó củng cố quan điểm rằng sự phục hồi kinh tế sau dịch COVID-19 đang dần "mất đà" giữa lúc các gói kích thích kinh tế của chính phủ giảm dần.
Số ca nhiễm COVID-19 mới tại châu Âu tiếp tục tăng, thúc đẩy một số nước như Anh, Đức và Pháp đã áp đặt các hạn chế mới để ngăn chặn dịch COVID-19 lan rộng, yếu tố làm ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng.
Về vấn đề nguồn cung, thị trường vẫn thận trọng trước việc Lybia nối lại xuất khẩu dầu, mặc dù chưa rõ nước này có thể tăng sản lượng bao nhiêu.
Giám đốc điều hành cấp cao của ConocoPhillips (Mỹ) dự báo nhu cầu dầu thế giới sẽ trở lại mức 100 triệu thùng mỗi ngày trong tương lai và sẽ tăng dần lên.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do đồng USD yếu đi và các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tái khẳng định duy trì chính sách tiền tệ lỏng.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.874,93 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,5% lên 1.876,9 USD/ounce. Đồng USD đã giảm 0,1% so với các đồng tiền chủ chốt khi chạm mức cao nhất trong hai tháng qua lúc đầu phiên giao dịch.
Phó Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Richard Clarida ngày 23/9 cho biết, ngân hàng này sẽ không xem xét việc tăng lãi suất từ mức gần bằng 0% cho đến khi lạm phát đạt mục tiêu 2%.
Theo Bart Melek, chuyên gia chiến lược hàng hóa hàng đầu tại trung tâm TD Securities, quyết định này của Fed sẽ là yếu tố hỗ trợ cho giá vàng. Các nhà phân tích thị trường cũng dự đoán giá kim loại quý này có triển vọng tăng giá trong trung hạn do lo ngại về cuộc bầu cử ở Mỹ.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,8% lên 23,28 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 22/7/2020 trong đầu phiên giao dịch; bạch kim tăng 1% lên 847 USD/ounce, đầu phiên giao dịch có lúc chạm mức thấp nhất hơn 2 tháng; palađi tăng 0,4% lên 2.229,83 USD/ounce, chạm mức thấp nhất gần 1 tháng trong đầu phiên giao dịch.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng, do đồng USD tăng mạnh làm giảm nhu cầu đối với hàng hóa được định giá bằng đồng USD và lo ngại các trường hợp nhiễm virus corona mới có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi nền kinh tế toàn cầu.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,8% xuống 6.551 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 18/8/2020. Trong ngày 21/9/2020, giá đồng đạt mức cao nhất kể từ tháng 6/2018 (6.877,5 USD/tấn). Sự phục hồi nền kinh tế của Trung Quốc sau đại dịch virus corona, hoạt động mua đầu cơ và gián đoạn nguồn cung đã đẩy giá đồng tính đến nay tăng 50% kể từ mức thấp trong tháng 3/2020.
Trong nhóm sắt thép, giá thép không gỉ tại Trung Quốc tăng gần 3%, được thúc đẩy bởi hoạt động mua vào khi giá kim loại này ở mức thấp. Trên sàn Thượng Hải, giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 2,9% lên 14.345 CNY (2.104,36 USD)/tấn, sau khi đóng cửa phiên trước đó tăng 2,3% lên 14.260 CNY/tấn. Giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 0,6% lên 3.552 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng tăng 0,5% lên 3.674 CNY/tấn. Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 0,3% lên 767 CNY/tấn. Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc tăng phiên thứ 5 liên tiếp lên 118,5 USD/tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương tại Chicago giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần, do các nhà đầu tư bán ra chốt lời sau khi giá tăng mạnh gần đây. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 giảm 14-1/2 US cent xuống 10 USD/bushel, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 5 US cent xuống 3,63-1/2 USD/bushel. Cả hai hợp đồng đều chạm mức thấp nhất kể từ ngày 16/9/2020. Giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn Chicago tăng 3/4 US cent lên 5,49-3/4 USD/bushel.
Giá đường tăng lên mức cao nhất 1 tháng, do lo ngại điều kiện thời tiết bất lợi tại một số khu vực trồng trọng điểm. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE tăng 0,04 US cent tương đương 0,3% lên 13,37 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 1 tháng (13,57 US cent/lb) trong đầu phiên giao dịch; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn London tăng 3 USD tương đương 0,8% lên 374,2 USD/tấn.
Đối với cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 0,65 US cent tương đương 0,6% lên 1,1115 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tháng (1,0905 USD/lb) trong phiên trước đó; robusta kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 3 USD tương đương 0,2% lên 1.352 USD/tấn.
Ở Châu Á, hoạt động giao dịch tại Việt Nam trầm lắng, do các thương nhân chờ đợi vụ thu hoạch mới, trong khi khoảng cách giá giữa thị trường Việt Nam và Indonesia được thu hẹp.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 110 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London, tăng so với mức cộng 70-80 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 33.500 VND (1,45 USD)/kg, giảm so với mức giá 34.200-34.500 VND/kg cách đây 1 tuần.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 190-200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London, tăng so với mức cộng 160 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá cao su trên sàn Osaka tăng do lo ngại về nguồn cung thắt chặt đã thúc đẩy hoạt động mua vào, sau khi nhóm công nghiệp bao gồm các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới dự kiến sản lượng cao su trong những tháng cuối năm và đầu năm tới sẽ giảm.
Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn Osaka tăng 1,7 JPY tương đương 0,9% lên 182,7 JPY (1,73 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 25 CNY lên 12.390 CNY (1.815 USD)/tấn.
Hội đồng Cao su Quốc tế Ba bên (ITRC) bao gồm Thái Lan, Indonesia và Malaysia dự kiến sản lượng cao su tự nhiên trong những tháng cuối năm 2020 và đầu năm 2021 sẽ giảm.
Giá hàng hóa thế giới sáng 25/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,41

+0,10

+0,25%

Dầu Brent

USD/thùng

41,99

+0,05

+0,12%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.500,00

+360,00

+1,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,18

-0,06

-2,89%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

119,85

+0,28

+0,23%

Dầu đốt

US cent/gallon

111,83

+0,16

+0,14%

Dầu khí

USD/tấn

325,75

+5,00

+1,56%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.840,00

+370,00

+0,87%

Vàng New York

USD/ounce

1.870,50

-6,40

-0,34%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.336,00

+46,00

+0,73%

Bạc New York

USD/ounce

23,13

-0,07

-0,31%

Bạc TOCOM

JPY/g

78,20

+3,00

+3,99%

Bạch kim

USD/ounce

852,09

+0,77

+0,09%

Palađi

USD/ounce

2.236,51

-1,07

-0,05%

Đồng New York

US cent/lb

298,40

+1,60

+0,54%

Đồng LME

USD/tấn

6.523,50

-81,00

-1,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.740,00

-14,50

-0,83%

Kẽm LME

USD/tấn

2.370,00

-34,00

-1,41%

Thiếc LME

USD/tấn

17.281,00

-569,00

-3,19%

Ngô

US cent/bushel

364,25

+0,75

+0,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

549,50

-0,25

-0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

285,50

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

12,58

+0,02

+0,16%

Đậu tương

US cent/bushel

1.001,00

+1,00

+0,10%

Khô đậu tương

USD/tấn

336,40

-0,10

-0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,38

-0,03

-0,09%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

511,00

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.599,00

+19,00

+0,74%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,15

+0,65

+0,59%

Đường thô

US cent/lb

13,37

+0,04

+0,30%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

106,90

-1,85

-1,70%

Bông

US cent/lb

65,64

+0,18

+0,28%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

578,60

-29,00

-4,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

138,00

+0,90

+0,66%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg