Số liệu từ Hiệp hội Sắt và Thép Trung Quốc (CISA), chỉ số quặng sắt (CIOPI)  của nước này đạt 386,33 điểm hôm 19/6/2019, tăng 2,32% tương đương 8,77 điểm so với chỉ số trước đó hôm 18/6/2019.

Trong số đó, chỉ số giá quặng sắt thị trường nội địa đạt 324,62 điểm, tăng 0,58% tương đương 1,87 điểm so với chỉ số giá trước đó, chỉ số giá quặng sắt nhập khẩu đạt 398,0 điểm, tăng 2,6% tương đương 10,07 điểm so với chỉ số trước đó.

Giá quặng sắt tại Trung Quốc ngày 20/6/2019 đạt mức cao kỷ lục, sau khi Rio Tinto Ltd giảm nguồn cung tại Pilbara cho thấy nguồn cung có thể vẫn thắt chặt ngay cả khi Vale SA tiếp tục hoạt động sản xuất tại mỏ Brucutu.

Rio Tinto giảm khối lượng quặng sắt xuất khẩu từ khu vực sản xuất lớn Pilbara, Australia lần thứ 3 kể từ tháng 4/2019. Dự kiến này chỉ vài giờ sau khi mỏ khai thác Vale Brazil, công ty sản xuất quặng sắt số 1 thế giới cho biết, sẽ tiếp tục hoạt động mỏ khai thác Brucutu trong vòng 72 giờ, sau phán quyết thuận lợi từ tòa án phúc thẩm.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 2,5% lên 820 CNY (118,94 USD)/tấn, cao nhất kể từ năm 2013.

Brucutu, chỉ hoạt động 1/3 công suất đã bị đóng cửa hồi tháng 2/2019, khi các hoạt động khai thác của Vale bị kiểm soát chặt chẽ sau vụ vỡ đập tại Brumadinho, Brazil.

Những lo ngại về an toàn đã đóng cửa các mỏ khai thác của Vale, hạn chế nguồn cung nguyên liệu sản xuất thép đến Trung Quốc, nước chiếm 1/2 sản lượng thép thế giới, tại thời điểm các nhà máy thép Trung Quốc tiếp tục tăng sản lượng.

Giá quặng sắt  giao ngay sang Trung Quốc đạt mức cao  đỉnh điểm 5 năm (114 USD/tấn) đối với quặng sắt 62% Fe, 128 USD/tấn đối với quặng sắt 65% Fe, 102 USD/tấn đối với quặng sắt 58% Fe và 82,5 USD/tấn đối với quặng sắt 52% Fe, công ty tư vấn SteelHome cho biết.

Rio Tinto dự kiến xuất khẩu từ Pilbara ở mức giữa 320 triệu tấn và 330 triệu tấn, chủ yếu là sản phẩm chất lượng thấp hơn và lợi nhuận thấp.

Mục tiêu trước đó ở mức 333 triệu tấn và 342 triệu tấn. Vale tái khẳng định doanh số bán quặng sắt và quặng viên năm 2019 ở mức 307 triệu tấn đến 332 triệu tấn, thay vì mức thấp như dự kiến trước đây.

Giá  các nguyên liệu sản xuất thép khác tại Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên cũng ở mức cao, với than luyện cốc tăng 0,9% lên 1.406 CNY/tấn. Giá than cốc tại Đại Liên tăng 1% lên 2.082,5 CNY/tấn. Giá thanh cốt thép kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 1,5% lên 3.818 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,8% lên 3.701 CNY/tấn.

Các thông tin khác:

Thép thương phẩm: Thống kê từ Bộ Thương mại Mỹ (DOC), trong tháng 4/2019 nước này đạt 33.800 tấn thép thương phẩm, bao gồm thép thương phẩm chữ U, I, H, L và T.

Con số này giảm đáng kể 26,3% so với tháng 3/2019, cũng giảm 63,3% so với tháng 4/2018.

Thép: Thống kê từ Liên đoàn Sắt và Thép Nhật Bản (JISF), các đơn hàng thép cacbon thông thường từ các nhà máy thép Nhật Bản trong tháng 4/2019 giảm 0,4% so với tháng 4/2018, đạt 5,6 triệu tấn, giảm tháng thứ 10 liên tiếp. Con số này tăng 0,9% so với tháng 3/2019. Thống kê cho biết, các đơn hàng thị trường nội địa đạt 3,7 triệu tấn, giảm 0,3% so với tháng 4/2018, trong khi tăng 2,4% so với tháng 3/2019.

Bên cạnh đó, khối lượng các đơn hàng xuất khẩu đạt 2 triệu tấn, giảm 0,7% so với tháng 4/2018 và giảm 1,8% so với tháng 3/2019.

Thép CRC: Thống kê từ Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ (TUIK), trong tháng 4/2019 nước này đã nhập khẩu 80.000 tấn thép cuộn cán nguội, tăng đáng kể 27% so với tháng 4/2018 và cũng tăng 56.000 tấn so với tháng 3/2019.

Trong số đó, nhập khẩu từ CIS chiếm 57% trong tổng số, trong đó Nga chiếm khoảng 43.000 tấn và Ukraine đạt 1.700 tấn. Các nguồn nhập khẩu khác bao gồm Bỉ, Romani, Nhật Bản, Italia, Đức và Hà Lan.

Nguồn: VITIC/Reuters

Nguồn: vinanet