Giá gạo nguyên liệu IR 504 không đổi so với ngày 7/5, dao động ở mức 8.350 - 8.400 đồng/kg. Chủng loại gạo thành phẩm IR 504 (5% tấm) ổn định ở mức 9.900 - 10.000 đồng/kg. Giá tấm 1 IR 504 hôm nay tăng 50 đồng/kg, đạt mức 7.400 đồng/kg. Giá cám vàng giảm nhẹ 50 đồng/kg, dao động 5.650 - 5.700 đồng/kg.
Giá lúa gạo trong nước ngày 8/5/2020
ĐVT: đồng/kg

Chủng loại

Ngày 8/5/2020

Ngày 7/5/2020

Thay đổi

NL IR 504

8.350 - 8.400

8.350 - 8.400

0

TP IR 504

9.900 - 10.000

9.900 - 10.000

0

Tấm 1 IR 504

7.400

7.350 - 7.400

+50

Cám vàng

5.650 - 5.700

5.700

-50

 

Trong tháng 4, giá lúa ở ĐBSCL nhìn chung có xu hướng tăng, đặc biệt là các loại lúa thường. Tại một số địa phương, các thương nhân thu gom nhiều loại lúa thường để chế biến thành gạo trắng xuất khẩu và dự trữ, do đó đã khiến giá tăng lên mạnh, đặc biệt là ngay sau khi Chính phủ cho phép XK gạo bình thường trở lại vào đầu tháng 5/2020.
Tại An Giang, lúa IR50404 có giá 5.500 đồng/kg (tăng 100 đồng/kg); lúa OM5451 lên mức 5.700 đồng/kg (tăng 100 đồng/kg); lúa OM 6976 giữ ở mức 5.600 đồng/kg. Tại Kiên Giang, lúa IR50404 lên mức 5.700-5.800 đồng/kg (tăng 300 đồng/kg); lúa OM4218 lên mức 6.600-6.800 đồng/kg (tăng 500 đồng/kg); lúa OM6976 lên mức 6.600 -6.700 đồng/kg (tăng 300 đồng/kg)...
Tổng cục Thống kê cho biết, theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, năng suất lúa Đông Xuân vùng ĐBSCL năm nay ước đạt 68,2 tạ/ha (tăng 0,4 tạ/ha so với vụ Đông Xuân trước); sản lượng đạt 10,55 triệu tấn (giảm 329,8 nghìn tấn). Tính đến giữa tháng 4, các địa phương phía Nam gieo sạ được 602,2 nghìn ha lúa Hè Thu (bằng 96,8% cùng kỳ năm trước), trong đó vùng ĐBSCL đạt 589,8 nghìn ha (bằng 96,8%).
Theo cập nhật của ngành nông nghiệp các tỉnh ĐBSCL, 4 tháng đầu năm 2020, XK gạo cả nước đạt 1,92 triệu tấn, kim ngạch đạt 886 triệu USD (giảm 7,9% về khối lượng và giảm 0,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019). Mặc dù giảm so với cùng kỳ, nhưng ở các thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam vẫn tăng.
Trong 3 tháng đầu năm 2020, Philippines đứng vị trí thứ nhất về thị trường XK gạo của Việt Nam khi chiếm 36,7% thị phần, sản lượng đạt hơn 594 nghìn tấn (tăng 8,2% so với cùng kỳ), giá trị đạt hơn 257 triệu USD (tăng 19,1%). Các thị trường khác cũng có giá trị XK gạo tăng mạnh là Trung Quốc (gấp 4,37 lần), Đài Loan (gấp 2,79 lần) và Indonesia (tăng 92,1%).
Xuất khẩu gạo sang Đài Loan tăng mạnh, Việt Nam là đối tác xuất khẩu gạo lớn thứ 3 vào Đài Loan trong quý 1/2020 (sau Mỹ và Thái Lan), với số lượng đạt 4.690 tấn chiếm 16,05% trong tổng lượng gạo nhập khẩu của Đài Loan; kim ngạch đạt 2,47 triệu USD tăng 61,41% về lượng và 79,89% về kim ngạch, lượng gạo Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là gạo nếp (Mã HS: 10063000104). Trong quý 1, Đài Loan đã nhập khẩu từ Việt Nam 2.180 tấn gạo nếp, chiếm hơn 46,46% tổng lượng gạo Đài Loan nhập từ Việt Nam, kim ngạch đạt 1,27 triệu USD, tăng 52,3% về lượng và tăng tới 92, 35% về giá trị. Việt Nam là đối tác xuất khẩu gạo nếp lớn nhất vào Đài Loan trong quý 1.
Thông tin từ tienphong.vn, theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo thế giới năm 2020 ước đạt 496,1 triệu tấn (giảm khoảng 0,6% so với năm 2019); tiêu dùng gạo thế giới năm 2020 đạt 490,2 triệu tấn (tăng khoảng 0,9%). Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, nhằm ứng phó với tác động của dịch COVID-19, Indonesia có kế hoạch thu mua khoảng 950.000 tấn gạo trong dân nhằm duy trì tồn kho ở mức 1-1,5 triệu tấn. Trong khi đó, Trung Quốc đang nỗ lực gia tăng sản lượng nông nghiệp nội địa khi khuyến khích trồng trở lại 2 vụ lúa/năm. Giá gạo hiện nay tăng tại hầu khắp các thị trường, tuy nhiên việc tồn kho trong dân tại khu vực Châu Á tăng có thể tác động đến nhu cầu trong thời gian tới.
Giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ vào giữa tháng 4/2020 tăng lên mức cao nhất 8 tháng, gạo đồ 5% tấm đạt 375-380 USD/tấn - cao nhất kể từ tuần đầu tiên của tháng 8/2019, cao hơn đáng kể so với 361-365 USD/tấn được niêm yết vào tháng 3. Đến nửa đầu tháng 4 năm nay, giá gạo tiêu chuẩn 5% tấm của Thái Lan vọt tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 4/2013. Song, gần cuối tháng 4, giá gạo của nước này hạ nhiệt xuống còn 530-538 USD/tấn.

Nguồn: VITIC