(VINANET) - Nếu như tháng 4/2014 nhập khẩu vải các loại tăng 12,2% so với tháng liền kề trước đó, thì nay sang tháng 5/2014 nhập khẩu mặt hàng nảy chỉ đạt 8,8% so với tháng 4, nâng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng 5 tháng đầu năm lên 3,7 tỷ USD, tăng 15,37% so với cùng kỳ năm 2013.

Việt Nam nhập khẩu vải các loại từ các thị trường Trung Quốc, Hàn quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông…Trong đó Trung Quốc vẫn là nguồn cung chính mặt hàng vải cho Việt Nam, chiếm 49,2% thị phần, với 1,8 tỷ USD, tăng 25,56% so với cùng kỳ; kế đến là thị trường Hàn Quốc với 728,2 triệu USD, tăng 10,54%...

Nhìn chung, 5 tháng đầu năm nay, nhập khẩu vải các loại đều tăng trưởng ở hầu khắp các thị trường, số thị trường có tốc độ tăng trưởng âm chỉ chiếm 33,3%, trong đó giảm mạnh nhất là thị trường Thái Lan và Philippine, giảm lần lượt 99,05% và giảm 52,72%.

Trong số những thị trường có tốc độ tăng trưởng dương, thì nhập khẩu từ thị trường Thổ Nhĩ kỳ có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, tăng 77,17%, tuy kim ngạch chỉ đạt 12,2 triệu USD.

Thống kê sơ bộ của TCHQ về thị trường nhập khẩu vải các loại 5 tháng 2014 –ĐVT: USD

 
KNNK 5T/2014
KNNK 5T/2013
% so sánh
Tổng KN
3.751.394.400
3.251.512.276
15,37
Trung Quốc
1.848.420.292
1.472.186.984
25,56
Hàn Quốc
728.232.284
658.823.786
10,54
Đài Loan
573.939.808
506.924.636
13,22
Nhật Bản
204.436.214
207.153.967
-1,31
Hong Kong
100.265.558
162.247.428
-38,20

Indonesia

27.676.440
18.908.428
46,37
Italia
25.763.480
21.291.586
21,00
Malaixia
25.540.651
23.685.669
7,83
An Độ
23.269.754
22.753.710
2,27
Đức
20.992.929
14.298.622
46,82
Pakixtan
14.221.003
13.980.616
1,72
Thổ Nhĩ Kỳ
12.206.261
6.889.692
77,17
Hoa Kỳ
10.901.904
8.035.915
35,66
Pháp
3.130.348
3.017.120
3,75
Xingapo
1.160.970
1.663.057
-30,19
Bỉ
1.063.653
2.048.720
-48,08
Thái Lan
756.240
79.764.283
-99,05
Philippine
530.810
1.122.731
-52,72

Nhiều năm nay, ngành may mặc Việt Nam nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng phụ thuộc phần lớn nguồn cung ứng nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Hằng năm phải nhập hơn 50% lượng vải phục vụ cho may mặc xuất khẩu. Việc giảm phụ thuộc này không dễ thực hiện ngay, nhưng về lâu dài cần phải được tính toán cụ thể...

Theo Hiệp hội Dệt - may Việt Nam (VITAS), năm 2013, ngành may Việt Nam đã vượt nhiều khó khăn, hoàn thành kim ngạch xuất khẩu 24 tỷ USD (tính cả xuất khẩu sợi). Để đạt được kết quả trên, ngành may cả nước phải sử dụng 7,4 tỷ m 2 vải, trong đó nhập khẩu đến sáu tỷ m 2 vải. Cùng với đó, các phụ liệu như nút áo, chỉ, cồn... cũng được nhập khẩu hơn 90%.

Cũng theo VITAS, nếu không có biến động lớn, quy mô ngành dệt - may Việt Nam sẽ tăng gấp hai lần vào năm 2025, đạt doanh thu khoảng 46 tỷ USD, trong đó xuất khẩu khoảng 40 tỷ USD. Để đạt được kim ngạch này, toàn ngành cần có 12 triệu cọc sợi, 12 tỷ m 2 vải và năm triệu lao động. Trong khi đó, năm 2013, toàn ngành mới có 6,1 triệu cọc sợi, sản xuất 720 nghìn tấn sợi xơ ngắn, 150 nghìn tấn sợi xơ dài và 1,4 tỷ m 2 vải. Ở những thị trường nhập khẩu dệt - may lớn như Mỹ, EU, hiện Việt Nam đứng thứ hai (sau Trung Quốc). Dù có mức tăng trưởng cao, nhưng dệt - may Việt Nam chỉ mới cung ứng được 2,5% nhu cầu tiêu thụ sản phẩm dệt - may thế giới. Khó khăn lớn nhất với ngành dệt - may nước ta là làm sao giảm dần phụ thuộc nguyên liệu từ nước ngoài.

Theo các chuyên gia kinh tế và các nhà quản lý dệt - may, ngành dệt - may trong nước chỉ mới sản xuất được 1,4 tỷ m 2 vải là do các nhà sản xuất trong nước không đủ vốn, kỹ năng quản lý kỹ thuật yếu, dẫn đến giá thành sản xuất vải cao, mẫu mã đơn điệu, chất lượng sản phẩm không đồng đều.

Một dự án sản xuất sợi, dệt, nhuộm có chi phí đầu tư rất cao. Một dây chuyền sản xuất sợi có mức đầu tư gấp hàng chục lần so với dây chuyền may. Một nhà máy kéo sợi có khoảng 2.000 cọc sợi, có giá đầu tư gần hai triệu USD. Chưa kể các công đoạn sau kéo sợi như dệt, nhuộm đòi hỏi đầu tư tiếp hàng chục triệu USD cho hệ thống xử lý nước thải, xử lý khí thải cho nên các nhà đầu tư nước ngoài vốn mạnh về tài chính thường có lợi thế hơn các doanh nghiệp trong nước.

Còn xây dựng một nhà máy may với 1.000 lao động, chi phí đầu tư khoảng 80 tỷ đồng, các doanh nghiệp trong nước ít vốn cho nên chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực này, thu lợi nhuận ngay. Trong khi đó, chính quyền các tỉnh, thành phố thường ngần ngại khi cấp giấy phép cho các dự án nhuộm vì còn e ngại các vấn đề môi trường.

Cũng theo các chuyên gia, để có thể chủ động nguồn nguyên liệu, Việt Nam cần tạo cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực nhuộm. Hiện nay, không ít nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm đến các dự án dệt nhuộm tại Việt Nam, vì sẽ có lợi khi Việt Nam tham gia TPP và Hiệp định thương mại tự do với Liên hiệp châu Âu.

Cùng với đó, Việt Nam cần có khu công nghiệp quy hoạch chuyên ngành dệt nhuộm, có phương án kỹ thuật và quản lý tốt các vấn đề ô nhiễm môi trường. Một khu công nghiệp sản xuất một tỷ m 2 vải mỗi năm, mỗi ngày sẽ thải ra khoảng 100 nghìn m 3 nước thải, nếu không quản lý tốt sẽ gây tác hại lớn tới môi trường. Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Công thương cần sớm có chính sách ưu đãi về vốn vay, thuế và giá thuê đất để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu dệt - may và cũng để đón đầu Hiệp định TPP. Bên cạnh đó, cần có biện pháp ngăn chặn hiệu quả hàng lậu, hàng nhái, hàng kém chất lượng từ các cửa khẩu.

Đối với doanh nghiệp, cần cơ cấu lại đối tượng và phân khúc khách hàng, thuyết phục các nhà nhập khẩu nước ngoài ưu tiên sử dụng nguyên phụ liệu trong nước hoặc từ các nước trong TPP. Doanh nghiệp cũng cần chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, giảm chi phí nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm.

Về lâu dài, để chủ động nguồn nguyên liệu, các doanh nghiệp nên mạnh dạn sản xuất theo phương thức ODM (từ thiết kế, sản xuất và bán thành phẩm cho khách hàng). Quan trọng hơn, Nhà nước, các bộ, ngành chức năng, người tiêu dùng Việt Nam cần đồng tâm và có hành động thiết thực, cụ thể nhằm ưu tiên sử dụng hàng Việt Nam để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước vượt qua khó khăn.

NG.Hương

Nguồn: Vinanet/Báo Nhân dân

 

Nguồn: Vinanet