Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2019 ước tính tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, IIP ước tính tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,4% và 6,6% của cùng kỳ năm 2016 và năm 2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,9% (cùng kỳ năm trước tăng 12,9%), đóng góp 8,3 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng bằng cùng kỳ năm trước (khai thác than tăng 13%, khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 4,1%).
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2019 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 77,5%; sản xuất kim loại tăng 40,6%; sản xuất xe có động cơ tăng18,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14%; khai thác quặng kim loại và chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa cùng tăng 13,8%; khai thác than cứng và than non tăng 13%; dệt tăng 12,1%.
Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng5,4%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 4,8%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 4,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 1,9% (cùng kỳ năm trước tăng 23,6%); sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 2,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 4%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 4,1%; khai khoáng khác (đá, cát, sỏi…) giảm 1,4%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 4 tháng năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Xăng, dầu tăng 70,3%; sắt, thép thô tăng 67,1%; ti vi tăng 42,6%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 29,8%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 19,5%; ô tô tăng 18,3%; sơn hóa học tăng 15,8%; than sạch tăng 12,8%; bia tăng 12,2%; phân u rê tăng 12,1%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thép thanh, thép góc tăng 3,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 0,4%; thức ăn cho gia súc giảm 0,7%; xe máy giảm 3,1%; phân hỗn hợp NPK giảm 5%; đường kính giảm 6,5%; dầu thô khai thác giảm 8,3%; linh kiện điện thoại giảm 24,6%.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp của 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó Thanh Hóa dẫn đầu với mức tăng 42,8% do Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn mới đi vào sản xuất từ giữa năm 2018; Trà Vinh tăng 38,3% do Công ty Nhiệt điện Duyên hải tăng sản lượng điện sản xuất; Hà Tĩnh tăng 34,9% chủ yếu do đóng góp của Tập đoàn Formosa. Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 23%; Quảng Ninh tăng 13,2%; Vĩnh Phúc tăng 12,9%; Hải Dương tăng 9,5%; Đồng Nai tăng 7,8%; Quảng Nam tăng 7,7%; Bình Dương tăng 7,5%; Thái Nguyên tăng 7,3%; Hà Nội tăng 6,8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,6%; Cần Thơ tăng 6,2%; Đà Nẵng tăng 4,1%. Các địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm so với cùng kỳ năm trước: Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 0,4% do khai thác dầu thô tiếp tục giảm; Gia Lai giảm 5,6% do sản xuất đường giảm; Hòa Bình giảm 11,3% chủ yếu do sản lượng điện sản xuất giảm; Bắc Ninh giảm 11,9% do sản xuất sản phẩm linh kiện điện thoại giảm mạnh.
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

 Nguồn: VITIC Tổng hợp/Tổng cục thống kê

Nguồn: Vinanet