Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do giới đầu tư lo ngại nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ trên toàn cầu sẽ sụt giảm.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 65 UScent tương đương 1% xuống 63,18 USD/thùng, trong khi giá dầu chuẩn Tây Texas (WTI) giảm 89 UScent tương đương 1,6% xuống 55,88 USD/thùng.
Các nhà quan sát cho biết ban đầu giá dầu nhận được hỗ trợ sau thống kê của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho thấy sự sụt giảm mạnh trong kho dự trữ dầu thô của Mỹ. Trong tuần tính đến ngày 19/7, kho dự trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 10,8 triệu thùng, cao hơn mức dự kiến giảm 4 triệu thùng của các nhà phân tích trước đó.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, sau đó, tâm lý của các nhà giao dịch trên thị trường dầu mỏ bị “phủ mây đen” bởi mối lo ngại sự giảm tốc của kinh tế toàn cầu sẽ làm suy yếu nhu cầu tiêu thụ “vàng đen”.
Ngày 23/7, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu trong năm 2019 và năm 2020 lần lượt xuống còn 3,2% và 3,5%, thấp hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức dự báo trước đó. Theo IMF, căng thẳng thương mại và tình trạng bất ổn kéo dài đang cản trở kinh tế thế giới. Báo cáo của IMF đã gióng hồi chuông cảnh báo và cho rằng tình hình kinh tế thế giới có thể xấu hơn.
Về phía nguồn cung, hai nước thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) là Saudi Arabia và Kuwait đang thảo luận về việc nối lại hoạt động sản xuất dầu tại khu vực Neutral Zone nằm giữa lãnh thổ hai nước. Hơn bốn năm trước, Saudi Arabia và Kuwait đã ngừng sản xuất tại các mỏ dầu nói trên và cắt giảm khoảng 500.000 thùng/ngày, tương đương 0,5% nguồn cung dầu toàn cầu.
Giá khí tự nhiên của Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 1 tháng bởi dụ báo thời tiết mát hơn trong 2 tuần tới so với dự báo trước đó.
Khí tự nhiên giao của Mỹ giao tháng 8/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa New York đóng cửa giảm 8 US cent hay 3,5% xuống 2,22 USD/mmBtu, gần với mức 2,185 USD/mmBtu đạt hồi 20/6, thấp nhất kể từ tháng 5/2016.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trước đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác sẽ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng khoảng 0,5% lên 1.423,30 USD/ounce, trong khi đó vàng giao sau tăng 0,1% và chốt phiên ở mức 1.423,60 USD/ounce.
Nhà phân tích Bernard Dahdah, thuộc Natixis nhận định phần lớn đà tăng của vàng là nhờ đồn đoán Fed sẽ hạ lãi suất trong tháng này. Nếu kịch bản này xảy ra, cơ hội nắm giữ vàng sẽ giảm và lượng tiền đầu tư vào kim loại quý này sẽ gia tăng.
Các nhà đầu tư dự báo Fed sẽ cắt giảm lãi suất tại cuộc họp chính sách diễn ra từ ngày 30-31/7. Giá vàng tính bằng euro đã tăng gần mức cao trong 6 năm rưỡi vào tuần trước, sau khi dữ liệu bi quan về Khu vực đồng euro (Eurozone) làm dấy lên kỳ vọng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ khi nhóm họp vào ngày 25/7.
Chỉ số nhà quản lý mua hàng (PMI) tại Eurozone, một trong những thước đo "sức khỏe" của các nền kinh tế, đã giảm xuống 51,5 trong tháng Bảy, so với mức 52,2 trong tháng Sáu và bỏ lỡ mức dự đoán 52,1 trong cuộc thăm dò do hãng Reuters tiến hành trước đó. Theo David Meger, một nhà quản lý tại High Ridge Futures, sau thống kê trên, giá vàng đã được hưởng lợi như một nơi “trú ẩn an toàn”.
Ngoài ra, thị trường vàng thỏi còn được hỗ trợ bởi quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Iran cùng với cuộc chiến tranh thương mại vẫn đang tiếp diễn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,2% lên 16,60 USD/ounce, sau khi có lúc vọt lên 16,64 USD/ounce, mức cao nhất trong hơn một năm. Trong khi giá bạch kim tăng 2,6% lên 876,39 USD/ounce, sau khi chạm mức cao trong gần ba tháng (876,99 USD/ounce) vào đầu phiên.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do thông tin các quan chức Mỹ sẽ đến Trung Quốc trong tuần tới để nối lại đàm phán thương mại, giúp hỗ trợ tâm lý ở thị trường kim loại công nghiệp vốn bị áp lực từ những lo ngại về tăng trưởng và nhu cầu.
Đồng trên sàn giao dịch kim loại London kết thúc phiên tăng 0,5% lên 5.999 USD/tấn. Giá kim loại này đã chạm mức thấp nhất 6 tháng tại 5.740 USD/tấn hồi tháng 6/2019.
Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer và các quan chức cao cấp của Mỹ sẽ tới Thượng Hải trong tuần tới để nối lại các cuộc đàm phán đã bị đình trệ nhằm kết thúc chiến tranh thương mại kéo dài. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin và đại diện thương mại Robert Lighthizer sẽ lãnh đạo phía Mỹ, trong khi Phó Thủ tướng Trung Quốc Liu He sẽ dẫn đầu các cuộc đàm phán về phía Trung Quốc.
Nhu cầu đối với kim loại cơ bản có mối tương quan cao với sản xuất (giảm tại Trung Quốc trong tháng qua). Thống đốc ngân hàng trung ương Trung Quốc Yi Gang cho biết lãi suất hiện tại là phù hợp.
Trung Quốc chiếm khoảng 1/2 lượng đồng tiêu thụ toàn cầu, ước tính khoảng 24 triệu tấn trong năm nay.
Dự trữ đồng trong kho LME ở mức 295.000 tấn, cao hơn đáng kể so với mức gần 111.000 tấn của tháng 3/2019.
Lo lắng về nguồn cung đồng trên thị trường LME có thể thấy trong giá đồng trả bằng tiền mặt nới rộng mức trừ lùi so với hợp đồng giao sau 3 tháng. Mức trừ lùi là 19 USD/tấn khi đóng cửa ngày 24/7 so với 2 USD/tấn trong ngày 15/7.
Giá quặng sắt Trung Quốc giảm gần 5% sau khi công ty khai thác Vale SA được chấp thuận khôi phục một số hoạt động, trong khi giá thép cây Thượng Hải tiếp tục giảm phiên thứ 6 liên tiếp.
Công ty khai mỏ của Brazil cho biết khu phức hợp Vargem Grande sẽ bổ sung 5 triệu tấn sản lượng hàng năm và tái khẳng định sự chỉ đạo bán quặng sắt trong năm 2019, làm giảm lo lắng về nguồn cung của thành phần sản xuất thép này.
Cơ quan điều hành khai thác của Brazil đã yêu cầu Vale dừng hoạt động tại Vargem Grande trong tháng 2/2019 để đảm bảo sự ổn định của các đập sau tai nạn vỡ đập làm chết người trong tháng 1/2019.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 2,7% xuống 860 CNY/tấn, trong phiên giá đã giảm 4,7% xuống 842 CNY/tấn, thấp nhất kể từ ngày 8/7.
Hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải chốt phiên giảm 1,3% xuống 3.899 CNY/tấn, sau khi xuống mức thấp nhất một tháng tại 3.878 CNY vào đầu phiên giao dịch.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2019 đóng cửa giảm 1,3 US cent hay 1,3% xuống 1,01 USD/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất một tháng tại 1,0055 USD.
Jollibee Foods, nhà điều hành mạng lưới dịch vụ thực phẩm lớn nhất Philippines, đang thực hiện mua nhãn hiệu Coffee Bean & Tea Leaf (CBTL) của Mỹ với giá 100 triệu USD như một phần của sự mở rộng ra ngoài thị trường trong nước.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2019 giảm 9 USD hay 0,7% xuống 1.360 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 đóng cửa tăng 0,08 US cent hay 0,7% lên 12,06 US cent/lb.
Sản lượng đường từ khu vực trung nam Brazil giảm 19% trong nửa đầu tháng 7/2019, theo Unica. Ngoài ra khoảng 400.000 ha trồng mía bị ảnh hưởng bởi sương giá hồi đầu tháng này sẽ tác động tới sản lượng.
Thị trường đường đóng cửa trên 12 US cent lần đầu tiên trong hơn một tuần rất có ý nghĩa về tâm lý.
Những lo ngại về thời tiết bất lợi tại Ấn Độ đang hỗ trợ đường. Mùa mưa của Ấn Độ dưới mức trung bình 35% trong tuần kết thúc vào ngày 24/7.
Ấn Độ, nhà sản xuất đường hàng đầu thế giới cũng đã quyết định giữ giá mua mía tối thiểu ổn định tại 275 rupee/100 kg trong mùa vụ tới.
Giá đường thế giới dự kiến tăng vào cuối năm nay do dự báo thiếu hụt toàn cầu cho niên vụ 2019/20, theo khảo sát của Reutes với 13 nhà phân tích và kinh doanh.
Đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 chốt phiên tăng 2,9 USD hay 0,9% lên 321,20 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) đóng cửa giảm 0,9 JPY xuống 186,1 JPY/kg. Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 45 CNY (6,54 USD) đóng cửa tại 10.685 CNY/tấn. Chỉ số chứng khoán Nikkei của Nhật Bản tăng 0,41%.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,88

-0,89

-1%

Dầu Brent

USD/thùng

63,18

-0,65

-1,02%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.820,00

-410,00

-1,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,23

+0,01

+0,41%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

185,55

+0,04

+0,02%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,00

+0,13

+0,07%

Dầu khí

USD/tấn

592,50

+7,50

+1,28%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.880,00

-370,00

-0,64%

Vàng New York

USD/ounce

1.425,30

+1,70

+0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.947,00

+19,00

+0,39%

Bạc New York

USD/ounce

16,64

+0,01

+0,05%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,80

+0,80

+1,40%

Bạch kim

USD/ounce

875,73

-1,71

-0,19%

Palađi

USD/ounce

1.542,80

+2,22

+0,14%

Đồng New York

US cent/lb

271,25

+0,05

+0,02%

Đồng LME

USD/tấn

5.999,00

+31,00

+0,52%

Nhôm LME

USD/tấn

1.826,00

+10,00

+0,55%

Kẽm LME

USD/tấn

2.459,00

+23,00

+0,94%

Thiếc LME

USD/tấn

17.925,00

+250,00

+1,41%

Ngô

US cent/bushel

430,75

-0,75

-0,17%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

497,75

+10,50

+2,15%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,75

-0,50

-0,19%

Gạo thô

USD/cwt

12,04

+0,07

+0,54%

Đậu tương

US cent/bushel

908,25

+4,50

+0,50%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,80

+0,30

+0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,80

+0,32

+1,12%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

450,20

+2,70

+0,60%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.463,00

-12,00

-0,48%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

101,00

-1,30

-1,27%

Đường thô

US cent/lb

12,06

+0,08

+0,67%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

103,90

+2,40

+2,36%

Bông

US cent/lb

64,32

+0,59

+0,93%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

343,50

+10,80

+3,25%

Cao su TOCOM

JPY/kg

187,00

+0,90

+0,48%

Ethanol CME

USD/gallon

1,50

0,00

-0,20%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters